Kim Jung IL: Điên Cuồng Hay Giảo Quyệt? |
Tác Giả: Phương Duy | |||
Thứ Tư, 30 Tháng 12 Năm 2009 14:29 | |||
Nhà độc tài cô đơn kỳ dị của Bắc Hàn đã làm rung chuyển thế giới. Liệu ông ta có điên khùng hay chỉ đơn thuần là một kẻ ác ? Câu hỏi đang làm điên đầu nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới sau vụ cho nổ bom hạt nhân, phóng hỏa tiển của họ Kim vừa qua. Bên trong toà lâu đài tráng lệ bằng cẩm thạch ở ngay trung tâm thủ đô Bình Nhưỡng (Ponyang), một dáng người tròn lẳn thấp bé, mặc trên người bộ đồ lãnh tụ kiểu Mao màu xám và cặp mắt kiếng quá khổ như che hết khuôn mặt, lúc này có lẽ đang gập mình xuống trên cái màn hình vi tính để phân tích trên mạng lưới truyền thông những phản ứng của toàn cầu sau vụ nổ. Đó là Kim Jung-Il, một nhà lãnh đạo bí ẩn nhất trên thế giới. Y không thích thú gì khác hơn việc theo dõi thật sát những tác động ảnh hưởng lên cả thế giới vì những hành vi kỳ lạ của y. Ông Kim Đại Trung, vị cựu tổng thống của Nam Hàn từng nói: “Y hiểu biết rầt rõ những gì đang xảy ra trên bình diện quốc tế”. Điều này làm cho thế giới bị buộc phải đối đầu với một vấn nạn mà cơ quan tình báo CIA Hoa Kỳ từng cố tìm ra câu trả lời trong nhiều năm: Sự thực y dở điên dở khùng hay y là kẻ tàn bạo xấu xa? Hay cả hai: vừa điên khùng vừa xấu xa? Ngày hôm nay, y đã chứng tỏ một cách rõ ràng rằng: quả thực, Bắc Hàn có trang bị vũ khí hạt nhân. Hơn thế, dư luận hay sự lên án của thế giới đối với y chẳng có gì đáng kể.Thực tế, ngay cả tiểu sử chính thức về đời sống riêng tư của Kim Jung-Il đã có vẻ rất bất thường không đáng tin cậy. Đó là những câu chuyện về huyền thoại có tính cách thêu dệt kiểu Mác xít nhằm mực đích bảo tồn sự sùng bái cá nhân và bảo vệ quyền lực của y. Theo bộ máy tuyên truyền của nhà nước Bắc Hàn đươngthời thì y là nhà chính trị vĩ đại nhất của thế kỷ 20. Tiểu sử thực sự của y có lẽ chỉ xuất hiện qua những mảnh vụn rời rạc được kể hay viết ra từ những người đào thoát đã từng quen biết y, hoặc trong một vài trường hợp là những cảm nghĩ rất hiếm hoi của một số người có cơ hội gặp gỡ và phỏng vấn y trực tiếp. Như vậy, thật là kinh khiếp khi chúng ta không hiểu thấu đáo hình ảnh chính xác của một con người mà, với chỉ một cái ấn nút nhẹ nhàng, có thể sát hại hàng triệu triệu con người ở những nơi xa tít. Theo huyền sử Bắc Hàn hiện tại, Kim Jung-Il sanh ra trong một ngôi nhà nhỏ cạnh một ngọn núi rất thiêng. KIm Nhật Thành Càng lớn lên, Kim con càng được cha thương yêu, tín nhiệm trao cho nhiều quyền hành. Đến năm 1980, Kim cha tuyên bố Kim con là người thừa kế chính thức. Vị “lãnh tụ vĩ đại” Kim Il-sung qua đời nằm 1994 trong một tình trạng rất đáng nghi ngờ: cậu con trai Kim Jung-Il cương quyết từ chối không cho các bác sĩ vào phòng sau khi cha y chết. Trên mọi phương diện, Kim con hoàn toàn không có gì khác lạ so với con cái của các vị lãnh chúa chuyên quyền bạo ngược khác như Saddam Hussein chẳng hạn. Y có một đời sống được nuông chiều quá mức, cộng thêm sự chứng kiến và hành xử những sự tàn ác hết sức dã man. làm cho y nhiễm tật coi sinh mạng con người như cỏ rác. Hầu hết thời gian trong đời y sống trong những dinh thự sang trọng của gia đình, với đầy đủ mọi thứ tiện nghi tân tiến nhất con người có thể có được, cùng một đám gia nhân và cố vấn. Ngoài việc sở hữu những chiếc thuyền buồm lộng lẫy, y có một bộ sưu tập đồ sộ về các kiểu xe máy nổ 2 bánh Harley-Davidson, những chiếc limousine nhập cảng đắt tiền và một chuồng ngựa nòi rặt. Thực phẩm cũng là một thứ y đam mê cuồng nhiệt suốt đời: y thích ăn đồ ngon vật lạ. Những nhà ngoại giao của đất nước thường phải gửi về cho y những sơn hào hải vị từ khắp nơi trên thế giới như gan cá voi xanh từ xứ Angola. Cho đến khi nắm toàn quyền lãnh đạo vào năm 1994, y lừng danh là một bợm nhậu uống rượu như hũ chìm, một tay chim gái khét tiếng với những thú ăn chơi trụy lạc và những hành động dâm ô đồi bại, dẫn đến việc tự nuông chiều mình đến cực điểm. Nhưng cái đam mê mãnh liệt nhất của y, ngoài vũ khí hạt nhân, là phim ảnh. Trong một cuộc phỏng vấn năm 2000, y nói nếu không làm chính trị, có lẽ y đã trở thành một người say mê đến cuồng tín các hoạt động phim trường, hoặc ít nhất là một nhà phê bình hay một nhà sản xuất phim ảnh. Năm 1978, bực tức vì sự thiếu thốn các nhà làm phim nội địa có tài, y đã tổ chức bắt cóc hai nhà làm phim Nam Hàn ở Hong Kong. Họ cố tìm cách trốn thoát nhưng thất bại, cuối cùng cũng phải sản xuất cho y một số phim ảnh, đồng thời giúp chỉ dạy cho y cách làm phim ảnh. Trong xưởng phim truyện quôc doanh Bắc Hàn ở gần thủ đô Bình Nhưỡng, một bức tranh khổng lồ của Kim Jung-Il vẽ cảnh y đang quan sát việc sản xuất bộ phim “Biển Máu” (Sea of Blood), bộ phim với mục đích tuyên truyền vinh danh chế độ. một trong những phim được bộ máy cầm quyền của y đặc biệt ưa thích. Nhưng chính y ở vào tuổi ba, bốn mươi, khi đươc cha trao cho quyền kiểm soát guồng máy an ninh quốc gia, đã gây kinh hoàng cho nhân dân với những biển máu riêng của y. Một nhà đào thoát tên Hoàng Giang Hợp đã tuyên bố rằng chính tay độc tài này là nhà đạo diễn cho hầu hết các hành động khủng bố mà xứ sở côn đồ này dính vào. Ông ta nói rằng ngay cả những nhiệm vụ nhỏ bé như công việc của một tay gián điệp chẳng hạn cũng phải được y xem xét và chấp thuận trưóc khi làm. Chuyện nhỏ mà không bỏ sót thì những vụ tấn công lớn chắc chắn phải có y nhúng tay vào. Y là một tay kỳ tài về các trò khủng bố. Chính Kim là người có dính dáng đến vụ đặt bom giết chết nhiều vị Bộ Trưởng trong nội các của Nam Hàn vào năm 1983 tại Rangoon, Miến Điện (Myanmar). Năm 1987, nữ gián điệp Bắc Hàn Kim Hyon Hui đã thú nhận là cô đã nhận lệnh trực tiếp từ Kim Jung-Il trong việc gài bom cho nổ tung chuyến bay 858 của hãng hàng không Nam Hàn, giết chết toàn bộ 115 hành khách cùng phi hành đoàn. Năm 1994, cha là Kim Il-sung chết, y để trống ngôi vị của cha trong ba năm như một người con hiếu thảo trong thời gian cư tang, trước khi chính thức lên ngôi vào năm 1997. Các nhà phân tích cho rằng, dưới bàn tay kiểm soát của Kim Jung-Il, hệ thống chính trị Bắc Hàn còn tỏ ra chuyên quyền độc đoán hơn cả dưới triều đại cha y. Sau khi nối ngôi cha, triều đại đầu tiên của một chế độ CS cha truyền con nối, Kim con tự biến mình thành một biểu tượng của đất nước. Y ra lệnh cho vẽ hình ảnh và tạc tượng thật đồ sộ của chính mình trên khắp mọi nẻo đường đất nước. Cũng như cha, y tự phong và bắt mọi người gọi y là “Lãnh Tụ Kính Yêu”. Truyền thông báo chí quôc doanh và bọn bồi bút đôi khi quá tâng bốc gọi y là “thượng đế” và đất nước Bắc Hàn là cõi “Niết Bàn Mác xít” của trần gian. Kim con dường như vẫn thừa nhận quan điểm của người cha cho rằng Bắc Hàn đang bị thế giới cô lập. Kẻ thù, đứng đầu là Mỹ, luôn luôn bao vây và chỉ mong tìm mọi cách huỷ diệt Bắc Hàn. Trong khi đó, y không làm gì hết để cải thiện mức sống cho người dân nghèo khổ thường xuyên bị nạn đói đe doạ vì những vụ mùa thất bại cứ liên tục tiếp diễn và do nền kinh tế trì trệ. Ngược lại, tài sản riêng của y, theo cơ quan CIA đánh giá, có hơn 5 tỷ Mỹ kim trong các trương mục ở ngân hàng Thuỵ Sĩ, 6 biệt thự ở rải rác châu Âu, 1 ở Nga và 1 cái khác ở Trung Quốc. Đối diện với tình trạng đất nước hầu như bị phá sản, y quay sang nghề kinh doanh bất hợp pháp trong các tổ chức tội phạm xã hội đen quốc tế để tìm nguồn vốn cho quốc gia với việc buôn bán và chuyển lậu ma tuý. Những hành động bất thường kỳ cục của Kim con không chỉ có thế. Năm 1998, y ký một nghị định sửa đổi hiến pháp Bắc Hàn, tuyên cáo rằng từ nay y trở thành chủ tịch nhà nước suốt đời. Nắm mọi quyền hành trong tay, kể cả quyền ngoại giao quôc tế, nhưng rất hiếm khi xuất ngoại. Quôc gia y thường đến thăm viếng chỉ là Trung Quốc và ngoại lệ một lần duy nhất là cộng sản Đông Đức. Cứ nhìn vào mái tóc phồng lên lạ lùng, những hành vi kỳ cục và bây giờ thêm sự ngang nhiên cho nổ bom hạt nhân mà bỏ ngoài tai những lời can ngăn của thế giới, người ta có lẽ nghiêng về kết luận rằng: “vị lãnh tụ kính yêu” của Bắc Hàn đơn giản là một kẻ tâm thần. Hãy nghe một màn độc diễn ba hoa chích choè của y trong một lần trả lời phỏng vấn một số nhà báo Nam Hàn đến thăm viếng Bắc Hàn năm 2000: “Ta không thèm ngồi chết dí suốt đời trong văn phòng để mà than van rên rỉ. Thì giờ quý báu của ta là để chia sẻ với nhân dân, ca hát và vui chơi hưởng thụ. Khi ta gặp gỡ nhân viên chính phủ, họ làm ta rất bối rối. Bọn này tự họ chẳng muốn thay đổi. Còn ta, ta chỉ muốn dùng thời giờ của ta hoà đồng với dân quê. Ta thường đi bơi và cưỡi ngựa một hoặc hai lần trong tuần. Ta thích sải ngựa nhanh khoảng 60 km/ giờ. Ta biết cưỡi ngựa từ khi lên 11 tuổi và luôn luôn phi nước đại hơn 8 cây số mỗi ngày với tốc độ từ 40 đến 60 km giờ.” Nhưng vẫn có một số người, kể cả viên cựu ngoại trưởng Mỹ thời tổng thống Clinton là bà Madeleine Albright, khi gặp gỡ y cũng rất kinh ngạc khi thấy rằng họ có thể đàm thoại với tay lãnh đạo du côn này một cách chừng mực và có lý trí. Thêm vào đó, sự trâng tráo, cô đơn, tính tình thay đổi không tiên đoán được của y làm mối nguy hiểm đáng sợ tăng gấp bội khi y có được vũ khí hạt nhân. Tính tàn nhẫn và cô độc này đã từng được đưa lên màn hình TV chế riễu trong phim hoạt hoạ South Park. Một nhà lãnh đạo của một đất nước độc tài, tham tàn bạo ngược, tính khí bất thường, tâm thần có vấn đề và có uy quyền trong tay đã thật đáng ghê sợ. Bây giờ, y lại có vũ khí diệt chủng. Chúng ta hãy tưởng tượng… BIẾT QUA VỀ BẮC TRIỀU TIÊN Bắc Hàn /Nam Hàn Căng thẳng tăng lên giữa hai chính phủ ở miền bắc và miền nam cuối cùng dẫn tới Chiến tranh Triều Tiên, khi ngày 25 tháng 6, 1950 (Bắc) Quân đội nhân dân Triều Tiên vượt vĩ tuyến 38, buộc tội miền nam đã vượt qua trước, và tấn công.. Cuộc chiến kéo dài tới 27 tháng 7, 1953, khi lực lượng Liên hiệp quốc và Quân đội nhân dân Triều Tiên cùng Quân tình nguyện nhân dân Trung Quốc ký kết Thoả thuận đình chiến Chiến tranh Triều Tiên. Vùng phi quân sự Triều Tiên (DMZ) phân chia hai nước. Bắc Triều Tiên do Kim Nhật Thành (Kim Il-sung) lãnh đạo từ năm 1948 tới khi ông chết ngày 8 tháng 7 năm 1994. Sau khi ông chết, con ông là Kim Chính Nhật Thời Kim Chính Nhật cầm quyền vào giữa thập kỷ 1990, nền kinh tế đất nước đã đi xuống nghiêm trọng, tình trạng thiếu lương thực diễn ra ở nhiều vùng. Theo các tổ chức viện trợ, hàng triệu người ở vùng nông thôn chết vì nạn đói, càng trầm trọng hơn vì sự sụp đổ của hệ thống phân phối lương thực. Rất nhiều người Bắc Triều Tiên đã nhập cư trái phép vào Cộng hoà nhân dân Trung Hoa để tìm lương thực. Hwang Jang-yop, Thư ký quốc tế Đảng lao động Triều Tiên đã đào thoát sang Nam Triều Tiên năm 1997.[1]. Do qui định theo cảm tính, không có cơ sở khoa học và không tham khảo tài liệu, vì thế tên chính thức của Bắc Triều Tiên trong các văn bản pháp qui của Việt Nam gọi tên hai miền- hai quốc gia không chính xác. Chính vì thế, nếu ta gọi Bắc Triều Tiên là Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên (tên tiếng Anh là Democratic People's Republic of Korea; thì Nam Triều Tiên cũng phải được gọi tương ứng là Cộng Hòa Triều Tiên (Republic of Korea. Xem thêm: Lịch sử Triều Tiên, Chia cắt Triều Tiên Chính tri /Chính phủ Các đảng chính trị nhỏ có tồn tại nhưng chúng đều phụ thuộc vào KWP và không phản đối lại sự nắm quyền của nó. Cơ cấu quyền lực thực sự của đất nước hiện vẫn còn đang bị tranh cãi giữa những nhà quan sát bên ngoài. Tháp Juche, Bình Nhưỡng Chính phủ nước cộng hoà được lãnh đạo bởi Thủ tướng và, trên lý thuyết, một siêu Nội các được gọi là Uỷ ban trung ương nhân dân (CPC), cơ cấu thiết lập chính sách cao nhất của chính phủ. CPC được lãnh đạo bởi một chủ tịch, do các thành viên Uỷ ban bầu ra. CPC đưa ra các quyết định về chính sách và giám sát Nội các, hay Uỷ ban hành chính quốc gia (SAC). SAC do một thủ và cơ quan điều hành hành chính của ông lãnh đạo. Quốc hội, là Hội nghị Nhân dân Tối cao (Choego Inmin Hoeui), theo hiến pháp là cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước. 687 thành viên của nó được bầu cử phổ thông theo thời hạn năm năm. Quốc hội nhân dân họp hai kỳ một năm, mỗi kỳ chỉ kéo dài vài ngày; thường thì nó chỉ phê chuẩn những quyết định do đảng KWP lãnh đạo đưa ra (xem chỉ để phê chuẩn (Chính trị)). Một uỷ ban thường trực được Quốc hội bầu ra để thực hiện các chức năng lập pháp khi Quốc hội không họp. Chủ tịch ủy ban thường vụ quốc hội hiện nay là ông Kim Yong-nam, và chủ tịch Quốc hội là ông Choe Thae Bok. Binh lính Bắc Hàn tại khu phiQuân sự DMZ năm 1998 Theo một cựu tù nhân, phụ nữ có thai trong các trại giam thường bị buộc phải phá thai hoặc đứa trẻ mới sinh sẽ bị giết. [6]. Không thể kiểm chứng được bất kỳ điều nào ở trên bởi vì Bắc Triều Tiên phủ nhận sự tồn tại của các trại và không cấp giấy phép vào trong cho bất kỳ một nhà quan sát nhân quyền độc lập nào. Nạn đói Nạn đói ở Bắc Triều Tiên đã giết 600.000 và 3.5 triệu người trong thập kỷ 1990 [7] [8]. Tới năm 1999, lương thực và cứu trợ nhân đạo đã làm giảm số người chết vì nạn đói, nhưng việc Bắc Triều Tiên tiếp tục chương trình vũ khí hạt nhân dẫn tới giảm sút viện trợ quốc tế.. Mùa xuân năm 2005, Chương trình lương thực thế giới báo cáo rằng các điều kiện gây ra nạn đói là một mối nguy hiểm và đang quay trở lại Bắc Triều Tiên, và chính phủ đã thông báo tập hợp hàng triệu cư dân thành phố tới giúp đỡ những người nông dân [9] [10]. Tuy nhiên, chính phủ Triều Tiên báo rằng sản lượng lương thực 2005 đạt tới 4.6 triệu tấn (tăng 10% so với năm 2004), bội thu nhất trong mười năm. Địa lý Bắc Triều Tiên nằm ở phần phía bắc Bán đảo Triều Tiên trải dài 1.100 kilômét (685 dặm) từ lục địa Châu Á. Bắc Triều Tiên có chung biên giới với ba nước và hai vùng biển.. Phía tây, nó giáp với Hoàng Hải và Vịnh Triều Tiên, phía đông giáp Biển Nhật Bản (Biển Đông của Triều Tiên). Biên giới trên bộ Bắc Triều Tiên giáp với ba nước Nam Triều Tiên , Trung Quốc, và Nga. Điểm cao nhất ở Triều Tiên là đỉnh Bạch Đầu 2.744 mét (9.003 ft) và các con sông chính là Đồ Môn và Áp Lục. Tôn giáo Bình Nhưỡng từng là trung tâm các hoạt động Thiên chúa giáo trước khi Chiến tranh Triều Tiên nổ ra. Hiện nay có hai nhà thờ được nhà nước phê chuẩn cho tồn tại, mà những người ủng hộ tự do tôn giáo cho là có để trưng ra cho những vị khách nước ngoài.[1][2] Con số tính toán thông thường cho rằng có khoảng 4.000 người theo Thiên chúa giáo ở Bắc Triều Tiên, và khoảng 9.000 người theo Tin Lành, trong tổng dân số 20 triệu người. Các hoạt dộng Thiên Chúa Giáo và Tin Lành, do quan điểm chính trị của KWP, bị hạn chế nghiêm ngặt. Ngôn ngữ Bắc Triều Tiên có chung tiếng Triều Tiên với Nam Triều Tiên. Có một số khác biệt về thổ ngữ bên trong cả hai miền Triều Tiên, nhưng biên giới giữa Bắc và Nam không thể hiện là một biên giới chính về ngôn ngữ. Đã xuất hiện một số khác biệt nhỏ, ban đầu là những từ được sử dụng trong những cải cách gần đây. Sự khác biệt ngôn ngữ đáng chú ý nhất giữa hai nước Triều Tiên là ngôn ngữ viết, với việc hạn chế những từ gốc Hán trong sử dụng thông thường ở Bắc Triều Tiên. Trái lại ở Nam Triều Tiên các từ gốc Hán vẫn được sử dụng nhiều, dù trong nhiều trường hợp, như báo chí thì lại hiếm.
|