Home Đời Sống Danh Nhân Nhà thơ Đông Hồ

Nhà thơ Đông Hồ PDF Print E-mail
Tác Giả: Saigon Echo sưu tầm   
Thứ Tư, 10 Tháng 3 Năm 2010 19:59

 Chiếc áo năm xưa đã cũ rồi, em đâu còn áo mặc đi chơi.

 
           Nhà thơ Đông Hồ

Sinh: 10 tháng 3 năm 1906. Tại: Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang

Mất: 25 tháng 3 năm 1969 (63 tuổi), tại Sài Gòn

Nghề nghiệp: Nhà giáo, Nhà thơ

Tác phẩm chính: Linh Phượng, Thơ Đông Hồ, Cô Gái Xuân ...

Xin xem các mục từ khác có tên tương tự ở Đông Hồ (định hướng).

Đông Hồ  tên thật Lâm Tấn Phác. Các bút hiệu khác: Thủy Cổ Nguyệt, Đại Ẩn Am, Nhị Liễu Tiên Sinh. Ông được đánh giá là một nhà giáo, một thi sĩ, một chuyên gia nghiên cứu tiếng Việt và là một người nhiệt tình với văn hóa dân tộc Việt Nam.

Thân thế & sự nghiệp

Đông Hồ sinh tại làng Mỹ Đức, Hà Tiên, nay thuộc tỉnh Kiên Giang, Việt Nam. Thuở nhỏ ông vốn tên là Kì Phác, sớm mồ côi cha mẹ, nhờ bác ruột là Lâm Hữu Lân nuôi dạy và đặt tiểu tự cho ông là Quốc Tỉ, tự là Trác Chi.
Lượt kê những hoạt động chính:

• Năm 1926 - 1934: Đông Hồ lập Trí Đức học xá chuyên dạy Việt ngữ, cổ động người Việt tin tưởng ở tương lai tiếng Việt. Thời kỳ này ông cộng tác với báo Nam Phong do Phạm Quỳnh chủ trương đến khi báo đình bản (1935).
• Năm 1935: xuất bản tuần báo Sống ở Sài Gòn nhưng chỉ ra được vài chục số thì đình bản vì không tự túc nổi; ông phải về lại Hà Tiên sinh sống và chuyên nghiên cứu văn học miền Nam.
• Năm 1945: tham gia kháng chiến chống Pháp một thời gian, nhưng sức yếu, ông rời Hà Tiên trở lên Sài Gòn.
• Năm 1950: Ông sáng lập nhà xuất bản Bốn Phương và nhà sách Yiểm Yiểm Thư Trang.
• Năm 1953: Ông xuất bản tập san Nhân Loại để yểm trợ cho nhà xuất bản và nhà sách nêu trên cho đến giữa năm 1964, tất cả mới ngưng hoạt động.
• Năm 1964: ở ẩn tại Quỳnh Lâm thư thất thuộc ngoại ô Sài Gòn.
• Năm 1965: ông được mời phụ trách môn Văn học miền Nam tại trường Đại học Văn khoa Sài Gòn.

Ông mất ngày 25 tháng 3 năm 1969 (tức 8 tháng Hai năm Kỷ Dậu) lúc đang đứng trên bục giảng cho sinh viên bài thơ "Trưng Nữ Vương" của nữ sĩ Ngân Giang.

Tác phẩm

Ngoài thơ, Đông Hồ còn viết văn, ký, khảo cứu, văn học sử. Về văn, ông viết từ văn xuôi biền ngẫu đến văn xuôi hiện đại. Ông có tiếng khi viết cho báo Nam Phong do Phạm Quỳnh chủ trương và nổi tiếng nhất với bài ký Linh Phượng, tức Trác Chi Lệ Ký tập và bài Phú Đông Hồ.
Các tác phẩm đã in thành sách:

• Thơ Đông Hồ (Văn Học Tùng Thư, Nam Ký Thư Quán, Hà Nội xuất bản, 1932): sáng tác trong khoảng 1922 - 1932
• Lời Hoa (Trí Đức Học Xá, Hà Tiên xb, 1934): các bài Việt văn của học sinh Trí Đức Học Xá đã nhuận sắc
• Linh Phượng (Nam Ký Thư Quán, Hà Nội xb, 1934): tập lệ ký khóc vợ, vừa thơ vừa văn xuôi, đăng ở Nam Phong t. XXII, số 128
• Cô Gái Xuân (Vị Giang Văn Khố Nam Định xb, 1935): thơ sáng tác trong khoảng 1932 - 1935
• Những lỗi thường lầm trong sự học Quốc văn (Trí Đức Học Xá xb, 1936): soạn chung với Trúc Hà
• Hà Tiên thập cảnh (Bốn Phương xb, 1960): in chung với Đường Vào Hà Tiên của Mộng Tuyết thất tiểu muội
• Trinh Trắng (Bốn Phương xb, 1961): thi tuyển
• Truyện Song tinh (Bốn Phương xb, 1962): sao lục, khảo cứu truyện Song Tinh Bất Dạ
• Chi lan đào lý (1965): tùy bút
• Năm ba điều nghĩ về Truyện Kiều (1965): thuyết trình nhân dịp kỷ niệm 200 năm sinh Nguyễn Du
• Bội lan hành (1969)
• Úc Viên thi thoại (1969)
• Đăng đàn (1969)
• Dòng Cổ Nguyệt (1969)
• Văn học miền Nam: văn học Hà Tiên (1970): tập họp những bài giảng ở Đại học Văn khoa Sài Gòn.

Đã hoàn thành các biên khảo:

• Thăm đảo Phú Quốc (Nam Phong, t. XXI, số 124, 1927)
• Hà Tiên Mạc thị sử (Nam Phong, t. XXV, số 143, 1929)
• Chuyện cầu tiên ở Phượng thành (1932)

Đánh giá

Đông Hồ viết nhiều loại văn, thơ, ký, khảo cứu và văn học sử. Ông viết từ thập niên 1920 cho đến thập niên 1960, đã đi từ thơ cũ đến thơ mới, từ văn xuôi biền ngẫu đến văn xuôi hiện đại.

Trích nhận xét:

Hoài Thanh và Hoài Chân:

"Hoàn cầu dễ ít có thứ tiếng được âu yếm nâng niu như tiếng Nam... Nhưng yêu quốc văn mà đến như Đông Hồ kể cũng ít" và với thi phẩm Cô gái xuân ông là "người thứ nhất đưa vào thi ca Việt Nam cái vị bát ngát của tình yêu dưới trăng thanh, trong tiếng sóng". [3]
• Nguyễn Tấn Long:

“Từ tập “thơ Đông Hồ” cũ kỹ đến tập “cô gái xuân” mới mẻ, người ta nhận thấy thoát lốt, một con người thi sĩ đang ở trong thời đại của mình, bỗng nhiên làm một cuộc biến hình...” [4]

Và trong Tự điển Văn học:

"Người ta còn nhớ ông là tác giả của Linh Phượng, tập lệ ký khóc vợ, vừa thơ vừa văn xuôi, với những hình ảnh, vần điệu cũ kỹ, song lại nói lên được cái buồn có tính chất thời đại lúc ấy.
Về mặt sưu tầm, khảo cứu văn liệu: tập Hà Tiên Mạc thị sử nói về nhóm Tao đàn Chiêu Anh Các do ông biên soạn; cuốn Truyện Song Tinh, tức Song Tinh Bất Dạ, là một truyện thơ nôm của Nguyễn Hữu Hào do ông tìm được; là những "cống hiến đáng kể" [5].

Giới thiệu thơ
 

Nhà kỷ niệm Đông Hồ, cũng là nơi ở
cuối cùng của Mộng Tuyết tại Hà Tiên

Hai đoạn thơ đánh dấu hai giai đoạn thơ, hai khuynh hướng thơ của Đông Hồ:

Chăn gối cùng nhau những ấm êm,
Bỗng làm ngọc nát bỗng châu chìm.
Đầm đìa giọt thảm khăn hồng thắm,
Lạnh lẽo đêm xuân giấc mộng tìm…

(Khóc Linh Phượng trích trong Thơ Đông Hồ, 1932)

và:
Chiếc áo năm xưa đã cũ rồi,
Em đâu còn áo mặc đi chơi.
Bán thơ, nhân dịp anh ra chợ,
Đành gởi anh mua chiếc mới thôi!
- Hàng bông mai biếc màu em thích,
Màu với hàng, em đã dặn rồi.
Còn thước tấc. Quên! Em chửa bảo,
Kích tùng bao rộng, vạt bao dài?
- Ô hay! Nghe hỏi mà yêu nhỉ!
Thước tấc anh còn lựa hỏi ai.
Rộng hẹp, tay anh bồng ẳm đó,
Ngắn dài, người mới tựa bên vai!

("Mua Áo", trích trong tập thơ Cô gái xuân, 1935 )

Chú thích:

1. Lược theo Đông Hồ, thi sĩ yêu tiếng Việt trên báo Tuổi Trẻ
2. Nhiều sinh viên dự lớp hôm ấy tin rằng khi đang bình giảng bài thơ "Trưng Nữ Vương" (bài thơ nói về nỗi cô đơn, lạnh lẽo của người nữ anh hùng chạnh nhớ tới chồng sau chiến thắng) của nữ sĩ Ngân Giang, vì quá xúc động trước vẻ đẹp của thơ, nên thầy Đông Hồ đã bị đột tử (tai biến mạch máu não) ngay trên bục giảng đường Đại học Văn khoa Sài Gòn vào ngày 25 tháng 3 năm 1969 (Theo bài viết "Phút cuối cùng trên bục giảng" của Bùi Văn Chúc. Nữ sĩ Mộng Tuyết, vợ Đông Hồ cho in lại trong Núi mộng gương hồ, quyển 2, Nxb Trẻ, 1998, tr. 115-116.)
3. Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học, 1998
4. Thi nhân Tiền chiến, NXB Sống Mới, 1969, tr.32
5. Tự điển văn học, tập I, NXB KHXH, Hà Nội, 1983, tr. 226