CHƯƠNG THỨ IIINói về sự thay đổiĐiều thứ 1086 – Sự trao đổi là một khế ước đo đó hai bên kết ước đổi đồ vật hay quyền lợi của bên này thành của bên kia. Điều thứ 1087 – Sự đánh đổi thành tựu và hoàn tất do sự thỏa thuận của hai bên cũng như sự mãi mại. Điều thứ 1088 – Hai bên trao đổi đều có nghĩa vụ bổ tương bảo đảm về mọi sự quấy rối cũng như sự truất đọat. Điều thứ 1089 – Bên nào bị truất đọat vật hay quyền của bên kia đổi cho mình có thể lựa chọn hoặc đòi bên kia phải trả một số tiền tương đương, hoặc xin tiêu hủy khế ước để lấy lại vật của mình đã giao. Ngoài ra có thể được bồi thường. Điều thứ 1090 – Nếu sau khi nhận được vật trao đổi người nhận có bằng cớ là vật này không phải của người kia, thì chỉ hoàn lại vật ấy chớ không bị buộc phải giao vật của mình. Điều thứ 1091 – Những điều khoản khác về sự mãi mại được áp dụng cho sự thay đổi. CHƯƠNG THỨ IVNói về sự thuê mướn T I Ế T ITổng tắcĐiều thứ 1092 – Không kể khế ước lao động thuộc luật lao động, khế ước thuê mướn chia làm hai loại: 1) Khế ước thuê mướn đồ vật; 2) Khế ước thuê khoán công tác. Điều thứ 1093 – Khế ước thuê mướn đồ vật là một khế ước do đó một bên cam kết để cho bên kia được hưởng dụng một đồ vật trong một thời gian, với một giá tiền thỏa thuận ấn định. Điều thứ 1094 – Khế ươc thuê mướn là một khế ươc do đó một bên nhận làm khóan cho bên kia một công tác với một giá đã được hai bên thỏa thuận, người làm không phải chịu dưới sự chỉ huy của người mướn. T I Ế T II
Thuê mướn đồ vậtĐiều thứ 1095 – Tất cả các thứ động sản và bất động sản đều có thể cho thuê mướn. Điều thứ 1096 – Những điều khoản dưới đây là phổ thông luật pháp cho việc thuê mướn: nhưng đặc chế hiện hành về việc thuê nhà để ở hay để làm thương mại và về việc thuê mướn ruộng đất vẫn tiếp tục áp dụng. P H Ụ T I Ế T I
Điều lệ chung cho việc thuê mướnĐất thành thị và thuê nông trại vườn đất thôn quê Điều thứ 1097 – Thuê mướn không cần phải làm giấy tờ, trừ phi thời hạn thuê mướn quá hai năm. Ngoài ra khế ước cho thuê quá ba năm phải đăng bộ mới đối kháng được với người đệ tam. Điều thứ 1098 – Trong trường hợp không làm giấy tờ mà việc thuê mướn bị một bên chối cãi, bên kia có thể lấy khẩu cung để chứng minh việc thuê mướn nhưng chỉ tới hạn hai năm mà thôi. Điều thứ 1099 – Nếu không làm giấy tờ mà có sự tranh nại về giá thuê, sẽ căn cứ vào thực trạng thực tế để ấn định; tòa cũng có thể cử giám định viên để ấn định. Điều thứ 1100 – Giá thuê có thể ấn định bằng tiền hay sản vật của điền địa. Điều thứ 1101 – Người thuê có quyền cho thuê lại hay nhường hẳn khế ước thuê mướn cho người khác, trừ phi những việc ấy bị cấm trong khế ước. 1.- Nghĩa vụ của người cho thuê Điều thứ 1202 – Người cho thuê đương nhiên có nghĩa vụ: 1) Phải giao bất động sản cho người thuê; 2) Phải tu bổ bất động sản sao cho lúc nào cũng thích ứng với mục đích của việc thuê mướn; 3) Phải làm cho người thuê được yên hưởng bất động sản trong thời gian thuê mướn. Điều thứ 1103 – Người cho thuê phải giao bất động sản trong tình trạng tốt; mọi sự hư hỏng, nếu có, phải đã được sửa sang rồi. Điều thứ 1104 – Ngoài ra trong thời gian thuê mướn, người cho thuê còn phải làm những việc sửa chữa cần thiết có tính cách đại tu bổ, những việc sửa chữa thông thường khác do người thuê phải chịu như sẽ định ở điều 1221 dưới đây. Sự phân biệt sửa chữa đại tu bổ với sửa chữa tiểu tu bổ sẽ theo như luật này đã định trong điều 432 thuộc tiết 2 (chương I, thiên 3, quyển 2) về “nghĩa vụ của người dụng ích.” Nếu trong thời hạn thuê bất động sản ngẫu nhiên bị hư hại tòan phần, việc thuê mướn sẽ đương nhiên được hủy bãi nếu chỉ bị hư hại một phần, người thuê có thể tùy nghi hoặc xin giảm giá thuê họăc xin hủy bãi khế ước. Trong cả hai trường hợp người cho thuê không phải bồi thường. Điều thứ 1105 – Người cho thuê phải bảo đảm cho người thuê về mọi hà tỳ hay hư hại làm cho bất động sản không dùng được, dẫu rằng khi kết ước người cho thuê không biết. Nếu người cho thuê bị thiệt hại về những hà tỳ hay hư hại ấy, người cho thuê phải bồi thương, trừ phi những hà tỳ hay hư hại nói trên rõ rệt, và người cho thuê phải nhìn thấy. Điều thứ 1106 – Nếu trong thời kỳ thuê mướn, bất động sản phải sửa chữa khẩn cấp, không đợi được đến lúc mãn hạn, người thuê phải để cho chủ nhà sửa chữa, dầu có bất tiện cho mình và dầu trong khi sửa chữa sẽ không được hưởng dụng toàn phần cho bất động sản. Tuy nhiên, nếu việc sửa chữa kéo dài quá một tháng, người thuê có quyền đòi trừ bớt tiền thuê ngoài thời gian ấy về phần bất động sản không được hưởng dụng. Nếu việc sửa chữa làm cho người thuê không thể lưu ngụ đươc, người này có thể xin tiêu hủy khế ước. Điều thứ 1107 – Ngừơi thuê có thể xin tòa cấp thẩm cử giám định viên xét định việc sửa chũa có tính cách khẩn cấp hay không. Nếu người cho thuê cố ý, dụng tâm gây bất tiện quá đáng cho ngừơi thuê để gián tiếp buộc người này phải dọn đi, người thuê có thể xin tòa cấp thẩm cử giám định viên đôn đốc việc sửa chữa. Ngừơi thuê cũng có thể, nếu muốn, tạm đời đi nơi khác để sẽ trở lại chiếm cứ bất động sản khi công việc sửa chữa hòan thành. Điều thứ 1108 – Người cho thuê không phải bảo đảm về những sự bạo hành do người đệ tam quấy rối trong quyền hưởng dụng của ngừơi thuê, người này, nếu muốn, phải tự truy tố kẻ bạo hành. Điều thứ 1109 – Nhưng nếu kẻ bạo hành tự cho là có quyền trên bất động sản, kiện người thuê đòi giao trả tất cà hay một phần bất động sản, ngừơi thuê phải đòi ngừoi chủ nhà, chủ đất ra bảo đảm và phải được đặt ra ngoài vụ một khi đã chỉ danh chủ nhà hay chủ đất. Trong turờng hợp này, người thuê có thể xin giảm tiền thuê theo sụ quấy rối quan trọng nhiều hay ít. 2.- Nghĩa vụ của người thuê Điều thứ 1110 – Người thuê có ba nghĩa vụ chính: 1) Phải dùng bất động sản một cách cẩn trọng như thể của mình và dùng theo dụng ích đã định trong khế ước hay ước đoán theo tình trạng thực tế, nếu không có khế ươc; 2) Phải trả tiền thuê đúng hạn đã định; 3) Phải trả lại bất động sản khi hết hạn thuê. Điều thứ 1111 – Nếu người thuê dùng bất động sản trái với dụng ích ước định hay làm hại cho chủ bất động sản, người này có thể xin tiêu hủy khê ước. Điều thứ 1112 – Người thuê nhà phải trang trí nơi thuê bằng đồ đạc đủ đảm bảo ba tháng tiền nhà, hay có một bảo đảm tương đương nào khác, nếu không chủ nhà xin hủy khế ườc. Điều thứ 1113 – Người thuê nông trại phải có tại nơi thuê đủ súc vật, dụng cụ canh tác và phải trồng trọt theo đụng đích của nông trại, nếu không, người chủ có thể xin tiêu hủy khế ước. Điều thứ 1114 – Ngừơi thuê lại chỉ chịu trách nhiệm với với mức giá tiền thuê lại, nhưng nếu có trả trứơc cho ngừơi thuê chính thì việc trả trước này không đối kháng được với người chủ, trừ phi có khế ước nhật ký chắc chắn hay tục lệ địa phương buộc phải trả trước. Điều thứ 1115 – Nếu giữa ngừơi chủ và người thuê có làm bản kê khai hiện trạng, ngừơi thuê phải trả lại bất động sản theo tình trạng ấy, trừ những cái gì đã bị tiêu hủy, hư hại vì quá cũ hay vì trường hợp bất khả kháng. Điều thứ 1116 – Nếu hai bên không làm bản kê khai hiện trạng người thuê phải coi như đã nhận được bất động sản trong tình trạng tốt và phải hòan lại như vậy, trừ phi có bằng chứng trái lại. Điều thư1117 – Người thuê có quyền tùy ý trồng trọt hay xây cất ở nơi thuê, nhưng hết hạn thuê phải lập lại tình trạng cũ, ngoại trừ trường hợp người chủ muốn giữ những cây cối đã trồng trọt, những kiến trúc đã xây dựng thoe điều 394 bộ luật này. Điều thứ 1118 – Người thuê phải chịu trách nhiệm về những hư hại, tiêu thất xẩy ra trong thời gian hưởng dụng của mình, của người thuê lại, và ngừơi thụ hưởng khế ước thuê mướn, trừ phi chứng tỏ được rằng không phải của họ gây ra. Tuy nhiên, nếu việc thuê lại hay nhượng lại đã được ngừơi chủ chấp nhận mặc nhiên hay minh thị, thì chỉ riêng ngừơi thuê lại, người thụ nhựong phải chịu trách nhiệm. Điều thứ 1119 – Người thuê phải chịu trách nhiệm về hỏa hoạn, trừ phi chứng tỏ được rằng hỏa hoạn xẩy ra vì một duyên cớ ngẫu nhiên, một trường hợp bất khả kháng, vì kiến trúc có khuyết điểm, hay vì lửa cháy ở nhà bên cạnh lan sang. Điều thứ 1120 – Nếu có nhiều người cùng thuê những phần riêng biêt trong bất động sản, tất cả phải chịu trách nhiệm về hỏa hoạn tùy theo giá trị thuê mướn của phần nhà mình chiếm ngự. Nhưng nếu chứng tỏ được rằng hỏa hoạn đã phát khởi từ nơi ở của một người trong bọn, thì chỉ người này phải chịu trách nhiệm. Nếu một số người thuê chứng tỏ được rằng hỏa hoạn không thể đã phát khởi từ nơi thuê của họ, thì chỉ riêng những người này không phải chịu trách nhiệm. Điều thứ 1121 – Người thuê phải đài thọ sở phí những việc sửa chữa thông thường, trừ phi vì tình trạng quá cũ hay vì trường hợp bất khả kháng mà phải sửa chũa thì không kể. Điều thứ 1122 – Người thuê phải trả tiền thuê vào thời kỳ đã định trong khế ước, hoặc theo thông lệ địa phương. Nếu không có giao ước hay thông lệ rõ ràng, sẽ được trả sau khi mỗi kỳ đáo hạn, chứ không phải trả trước. Điều thứ 1123 – Tùy theo sự giao ước giữa hai bên, có thể người thuê phải mang tiền thuê đến nhà người chủ để trả, hay ngừơi chủ phải đến nhà người thuê để đòi. Nếu không có giao ước rõ ràng, người thuê chỉ phải trả khi nào người chủ đến đòi. Điều thứ 1124 – Về thuế thổ trách và các thứ thuế đảm phụ người chủ phải trả, trừ phi có giao ước trái lại. 3.- Chấm dứt khế ước thuê mướn Điều thứ 1125 – Khế ước có hạn định đương nhiên hết hiệu lực khi mãn hạn, không cần phải báo thôi. Tuy nhiên, nếu sau khi hết hạn, người thuê vẫn ở yên tại chỗ, không có sự phản kháng của người chủ, khế ước được đương nhiên tái tục theo những điều kiện cũ, ngoại trừ về thời hạn: ngừơi thuê có thể bị trục xuất, nhưng đã phải bị tống cư hợp lệ theo điều 1128 dưới đây. Điều thứ 1126 – Khế ước thuê mướn bất động sản không bị tiêu hủy, mặc dầu người chủ hay ngừơi thuê mệnh một. Điều thứ 1127 - Nếu bất động sản ngẫu nhiên bị tiêu hủy hòan toàn, khế ước sẽ đương nhiên chấm dứt. Nếu chỉ tiêu hủy có một phần ngừơi thuê có quyền tùy ý xin giảm bớt tiền thuê hay tiêu hủy khế ước. Nhưng trong cả hai trường hợp, ngừơi thuê không thể được bồi thường. Điều thứ 1128 – Nếu khế ước không hạn định về thời gian, mỗi bên đều có quyền chấm dứt bất cứ lúc nào, nhưng phải báo cho bên kia biết trước ba tháng, không phân biệt việc thuê mướn có tác dụng thương mại hay cư trú. Nếu là đất thuê trống ở thành thị hay ở thôn quê, thời hạn báo thôi sẽ là sáu tháng. Nếu là nông trại, vườn đất có canh tác sinh lợi, sẽ sử dụng điều 1130 dưới đây. Điều thứ 1129 – Khế ước thuê mướn có thể bị tiêu hủy, nếu ngừơi chủ hay người thuê khiếm khuyết nghĩa vụ. Điều thứ 1130 – Trong trường hợp ngừơi chủ đọan mại bất động sản, ngừơi thuê không thể bị người mua trục xuất; 1) Nếu có một khế ước trên ba năm đã đăng ký vào địa bộ; 2) Hoặc có một khế ước dưới ba năm nhưng chưa mãn hạn và có nhật ký chắc chắn, trừ khi trong khế ước thuê mướn đã dự liệu rằng người thuê có thể bị trục xuất nếu ngừơi chủ bán bất động sản mặc dầu lúc bán khế ước chưa mãn hạn. Người mua có thể xin trục xuất người thuê, nếu khế ước không có nhật ký chắc chắn. Điều thứ 1131 – Ngừơi mua thuc bất động sản mà chưa thành sở hữu chủ thiệt thọ vì chưa hết hạn chuộc, chưa có quyền xin trục xuất ngừơi thuê. Điều thứ 1132 – Vẫn đươc giữ lại các qui chế đặc biệt như dụ số 4 ngày 2-4-1953, dụ số 17 ngày 3-6-1853 cùng các văn kiện liên thuộc. PHỤ TIẾT II
Điều lệ riêng cho việc thuê mướn nông trại, Vườn đất canh tác ở nông thônĐiều thứ 1133 – Bộ luật này chỉ quy định việc thuê mướn thường luật, không thay đổi gì về quy chế tá điền ấn định do dụ số 20 ngày 4-6-1953 và số 2 ngày 8-1-1955, cùng các văn kiện bổ túc phụ thuộc. Điều thứ 1134 – Nếu người thuê nông trại bỏ hoang không trồng trọt, hay đem dùng vào một việc khác, hay không thi hành các điều khỏan ước định do đó gây thiệt hại cho người chủ, ngừơi này có thê xin tiêu hủy khế ước Điều thứ 1135 – Người thuê phải báo cho ngừơi chủ biết về mọi xâm lấn của ngừơi đệ tam, nếu không sẽ phải bồi thường. Điều thứ 1136 – Trong trường hợp tất cả hoa lợi hay ít ra là phần nửa bị mất vì một duyên cớ ngẫu nhiên hay vì trường hợp bất khả kháng, ngừơi thuê có thể xin giảm bờt tiền thuê. Điều thứ 1137 – Người chủ cho thuê cả súc vật sẽ được chia một nửa số súc vật sinh sản, nhưng cũng phải chịu một nửa về sự thất thác xẩy ra không vì lỗi của ngừơi thuê, trừ phi có giao ước trái lại. Người chủ chỉ được chia số súc vật sinh sản còn lại sau khi số súc vật bị chết đã được thay thế bằng súc vật mới sinh. Điều thứ 1138 – Khế ước thuê mướn nông trại, vườn đất canh tác ở thôn quê, nếu không ấn định thời gian, sẽ có hiệu lực tối thiểu là một năm. Nếu hết hạn ấy, ngừơi thuê vẫn tiếp tục chiếm cứ, không có sự phản kháng của ngừơi chủ, khế ước được coi như tái tục thêm một năm nữa. PHỤ TIẾT III
Thuê mướn động sảnĐiều thứ 1139 – Việc thuê mướn động sản cũng theo những nguyên tắc đã quy định ở trên cho việc thuê mướn bất động sản. Điều thứ 1140 – Ngừơi thuê mướn súc vật phải chịu trách nhiệm về mọi sự thất thác xẩy ra trong thời gian thuê mướn, trừ phi có giao ước trái lại hay chứng minh được rằng nguyên nhân của sự thất thác đã có sẵn từ trước khi thuê hoặc sự thất thác là do thế bất khả kháng. Nếu trong thời cho thuê con vật có sinh sản, người chủ được hưởng những con vật mới sinh. Điều thứ 1141 – Người thuê ghe thuyền cũng phải chịu trách nhiệm như trên, nếu thuyền bị mất, bị đắm. Ngừơi thuê dụng cụ kỹ nghệ cũng phải chịu trách nhiệm như trên về mọi sự hư hại, phải giữ gìn dụng cụ trong tình trạng tốt và phải làm mọi việc tu sửa cần thiết. Điều thứ 1142 – Thuê mướn động sản mà không có giấy tờ thì chỉ được coi như thỏa thuận trong thời hạn một năm là cùng. T I Ế T III
Thuê mướn công tácĐiều thứ 1143 – Người làm khóan có nghĩa vụ làm công việc đúng như đã định trong khế ước. Điều thứ 1144 – Nếu công việc không làm đúng khế ước, ngừơi thuê có thể từ chối tiếp nhận, hoặc bắt sửa đổi lại cho đúng, hoặc tiếp nhận nhưng giảm bớt tiền đã định. Điều thứ 1145 – Nếu công việc không làm xong như trong thời gian đã ước định, khế ước có thể bị tiêu hủy và người làm khoán còn phải bồi thường thiệt hại, nhưng khỏi phải bồi thường nếu sự chậm trễ là do một duyên cớ ngẫu nhiên hay một trường hợp bất khả kháng. Điều thứ 1146 – Trong trường hợp người làm khóan tự cung cấp cả vật liệu, ngừơi này phải chịu trách nhiệm nếu đồ vật bị tiêu hủy hay hư hao không có là vì duyên cớ gì trước khi giao, trừ phi ngừơi thuê làm bị đốc thúc để tiếp nậhn đồ vật. Điều thứ 1147 – Trong trường hợp ngừơi thuê làm cung cấp vật liệu, ngừơi làm khóan chỉ phải chịu trách nhiệm nếu chính mình có lầm lỗi làm cho đồ vật bị tiêu hủy hay hư hao. Điều thứ 1148 – Trong trường hợp đồ vật bị tiêu hủy hay hư hao dù không phải vì lỗi của người thầu, ngừơi này cũng không được tiền công, nếu ngừơi thuê làm chưa tiếp nhận, trừ phi đồ vật bị tiêu hủy hay hư hao vì ngừơi làm thuê đã cung cấp vật liệu xấu. Điều thứ 1149 – Nếu một tòa nhà xây cát khóan bị sụp đổ, một phần hay tòan thể trong năm năm sau khi tiếp nhận, vì xây cất có khuyết điểm hay vì đất lún, ngừơi thầu và kiến trúc sư đều có trách nhiệm, ngoại trừ quyền khiếu tố của ngừơi này đối với ngừơi kia. Điều thứ 1150 – Người thầu hay kiến trúc sư nhận xây cất một tòa nhà theo một họa đồ đã thỏa thuận với chủ đất không được viện lẽ nhân công, vật liệu lên giá hay có thay đổi, xây cất thêm để đòi tăng tiền công theo thời giá nhân công và vật liệu hay thỏa thuận về mọi sự thay đổi, xây cất thêm, vào họa đồ theo một giá ấn định. Điều thứ 1151 – Ngừơi thuê làm khoán lúc nào cũng có thể hủy bỏ khế ước trước khi công việc hoàn tất, với điều kiện phải đền bồi cho người thầu mọi khoản chi tiêu, phải trả công và giá tiền về phần đã làm rồi, cùng tiền lợi bị thất thâu trong công tác thầu. Điều thứ 1152 – Trong sự tương quan với ngừơi thuê khoán, người lãnh khoán phải chịu trách nhiệm về những kẻ do mình dùng để làm việc, kể cả ngừơi thầu lại và cai thầu đã lập ước với mình. Điều thứ 1153 – Người thuê làm đã trả tiền công tức đã thuận nhận công việc của ngừơi lãnh khóan. Điều thứ 1154 – Nếu sau khi ngừơi thuê đã thuận nhận và trả tiền lại phát lộ những sự hư hỏng hay khuyết điểm trong công việc, người thuê làm có thể đòi lại một phần tiền, tùy theo sự quan trọng của những khuyết điểm, nhưng chỉ trong hạn một năm kể từ ngày thuận nhận, ngoại trừ trừơng hợp đã định ở điều 1149. Điều thứ 1155 – Khế ước thuê khoán bị tiêu hủy, nếu người lãnh khóan mệnh một, nhưng ngừơi thuê pbải trả tiền các công tác đã làm với giá tiền các vật liệu đã mua sắm, nếu các công tác và các vật liệu ấy có lợi cho mình. CHƯƠNG THỨ V
Nói về các khế ước vay mượnĐiều thứ 1156 – Có hai loại khế ước vay mượn: 1) Vay mượn vật không bị tiêu thất vì sự hành dụng: đó là khế ước mượn dùng; 2) Vay mượn vật nếu đã dùng sẽ không còn nữa: đó là khế ước vay nợ. T I Ế T INói về sự mượn dùngĐiều thứ 1157 – Khế ước mượn dùng là một khế ước do đó một bên đương sự giao cho bên kia một vật để dùng, với nghĩa vụ phải hoàn lại sau khi đã dùng xong. Điều thứ 1158 – Khế ước mượn dùng là một khế ước vô thừong. Điều thứ 1169 – Người cho mượn vẫn là sở hữu chủ vật cho mượn. Điều thứ 1160 - Tất cả những vật đem giao dịch được, nếu là vật không bị tiêu thất, đều có thể là sở vật cho khế ước mượn dùng. Điều thứ 1161 – Những điều am kết trong khế ước mượn dùng có hiệu lực ràng buộc thừa kế của người mượn cũng như thừa kế của người cho mượn. Tuy nhiên, nếu ngừơi chủ chỉ muốn cho riêng một người mượn, thì thừa kế của người này không được tiếp tục hưởng dụng vật cho mượn. PHỤ TIẾT I
Nói về nghĩa vụ của người mượnĐiều thứ 1162 – Người mượn phải giữ gìn vật cẩn trọng và chỉ được dùng theo tác dụng của vật cho mượn và trong thời gian ước định; nếu làm trái, có thể phải bồi thường. Điều thứ 1163 – Nếu được đem dùng vào một tác dụng khác, hay dùng ngoài thời gian ước định ngừơi mượn phải bồi thường, dù là tiêu thất vì một trường hợp ngẫu nhiên hay bất khả kháng. Điều thứ 1164 – Nếu vật đã được trị giá khi cho mượn thì người mượn phải chịu trách nhiệm về sự tiêu thất, dầu là tiêu thất vì trường hợp ngẫu nhiên hay bất khả kháng, trừ phi có giao ước trái lại. Điều thứ 1165 – Nếu vật bị hư hại, hao mòn chỉ vì đem dùng theo tác dụng, ngừơi mượn không phải đền bù sự hư hại, hao mòn ấy. Điều thứ 1166 – Người mượn không có quyền giữ lại để trừ nợ. Điều thứ 1167 – Người không được bồi hoàn về những phí tổn đã xuất ra để dùng đồ vật. Điều thứ 1168 – Nếu có nhiều người cùng mượn chung một đồ vật, tất cả phải chịu trách nhiệm liên đới đối với ngừơi chủ. PHỤ TIẾT II
Nghĩa vụ của người cho mượnĐiều thứ 1169 – Ngừơi chủ chỉ có thể lấy lại đồ vật sau khi hết hạn đã thuận nhận cho mượn, hay nếu không có giao ước về thời hạn, sau khi đồ vật đã được dùng xong vào chủ đích của việc cho mượn. Điều thứ 1170 – Tuy nhiên, nếu trước khi ấy, ngừơi chủ bất thần cần dùng đến đồ vật, tòa án có thể, tùy trường hợp, buộc ngừơi mượn phải giao trả. Điều thứ 1171 – Nếu trong thời gian mượn dùng, để giữ cho vật được toàn vẹn, người mượn phải xuất ra một món chi tiêu bất thường, cần thiết, không cần báo cho ngừơi chủ, ngừơi này sẽ phải hoàn lại phí tổn ấy cho người mượn. Điều thứ 1172 – Người chủ phải chịu trách nhiệm, nếu biết là đồ vật có tỷ tích có thể gây thiệt hại cho ngừơi mượn, mà không nói trước cho người mượn biết rõ tình trạng ấy. T I Ế T II Nói về sự vay mượn PHỤ TIẾT INói về bản chất khế ước vay nợĐiều thứ 1173 – Khế ước vay nợ là một khế ước trong đó, một bên đương sự giao cho bên kia một số đồ vật sẽ bị tiêu thất do sự tiêu thụ, ngừơi vay khi tới hạn sẽ phải hòan lại đúng số lượng, cùng loại, cùng hàng như đồ vật đã vay, mặc dầu đồ vật ấy tăng hay sụt giá. Điều thứ 1174 – Người vay thành sở hữu chủ vật đã vay, và nếu vật bị tiêu thất, không cứ vì duyên cớ gì, người vay vẫn có bổn phận hoàn trả. Điều thứ 1175 – Nếu vì trường hợp ngẫu nhiên hay bất khả kháng, người vay không thể trả lại được vật cùng loại đã vay, tòa án có thể cho một ân hạn nếu sự cản trở chỉ có tính cách tạm thời, hoặc cho được trả một sồ tiền tương đương thay cho đồ vật. Điều thứ 1176 – Người vay tiền có nghĩa vụ phải trả đúng số tiền được ghi trong khế ước, mặc dầu tiền tăng giá hay sụt giá. Điều thứ 1177 – Nếu vay thực phẩm hay vàng bạc bằng thỏi, nên, người vay phải trả đúng số lượng, và cùng hạng, không hơn không kém, mặc dầu thời giá có thay đổi. PHỤ TIẾT IINghĩa vụ của người cho vayĐiều thứ 1178 – Người cho vay không có quyền đòi lại trước khi đến hạn đã định cho người vay phải trả. Nếu không có thời hạn nào được ấn định cho sự trả nợ, tòa án sẽ ấn định tùy theo trường hợp. Nếu hai bên chỉ ước hẹn rằng ngừơi vay có thể trả khi nào trả được, tòa án sẽ tùy theo tình tiết mà định một hạn cho ngừoi vay. Điều thứ 1179 – Điều 1172 về việc mượn dùng được áp dụng cho việc vay nợ. PHỤ TIẾT IIINghĩa vụ của người vayĐiều thứ 1180 – Đến hạn đã định, người vay phải trả lại đồ vật cùng số lượng và cùng hạng như đã vay. Điều thứ 1181 – Gặp trường hợp không thể kiếm được đồ vật cùng lọai để trả lại, người vay phải hoàn lại bằng tiền, theo giá trị vào lúc phải trả và ở nơi phải trả. Nếu không có thời hạn nào và nơi nào được ấn định cho việc trả nợ, sẽ căn cứ vào lúc vay và nơi vay để trị giá. Điều thứ 1182 – Nếu không có ước định nơi trả nợ, người vay phải trả nơi cư sở hay trú quán của trái chủ. Điều thứ 1183 – Nếu đến hạn, ngừơi vay không trả sẽ phải chịu tiền lãi kể từ ngày bị đốc thúc hay bị kiện. T I Ế T IIINói về sự vay lãiĐiều thứ 1184 – Trong việc vay nợ tiền bạc, thực phẩm hay bất cứ động sản nào khác, hai bên có thể định một số tiền lãi cho ngừơi chủ nợ được hưởng. Điều thứ 1185 – Chủ nợ chỉ có thể đòi tiền lãi nếu đã có ước định rằng nợ sinh lãi. Nếu văn tự chỉ nói rằng ngừơi vay phải trả lãi mà không định rõ lợi xuất, thì người vay chỉ phải trả theo lợi xuất pháp định. Ngừơi vay đã tự ý trả lãi mặc dầu khế ước không bắt buộc sẽ không đòi lại được số lãi đã trả trong giới hạn pháp định, cũng không khấu trừ được số lãi ấy vào tiền vốn. Điều thứ 1186 – Lợi xuất pháp định cho việc vay nợ dân sự cũng như thương sự sẽ do một bản văn riêng biệt qui định. Điều thứ 1187 – Lợi xuất ước định về nợ dân sự và thương sự cũng sẽ được qui định như nói ở điều trên. Điều thứ 1188 – Lợi xuất dân sự nếu ấn định quá 12% và lợi xuất thương sự nếu ấn định quá 24% sẽ phải rút xúông cho bằng mức ấy và số lãi trả thừa sẽ được hoàn lại hoặc khấu trừ vào tiền vốn. Điều thứ 1189 – Nếu chủ nợ lấy lãi bất hợp pháp và giấu giếm sự trạng ấy bằng cách viết tăng số vốn trong văn tự, hoặc bằng cách nào khác, số lãi ấy không phải trả: nếu trái hộ đã trả rồi, có thể đòi lại hoặc trừ vào tiền vốn, chưa kể chủ nợ có thể bị truy tô về tội cho vay nặng lãi. Điều thứ 1190 – Lợi ích ước định phải có giấy tờ chứng tỏ. Điều thứ 1191 – Chủ nợ đã biên nhận tiền vốn mà không dành quyền về tiền lãi phải coi như đã được trả lãi rồi, không cứ vốn, lãi phải trả là tiền bạc hay là thực phẩm. Điều thứ 1192 – Tiền lãi diên kỳ phải trả theo điều kiện đả định trong khế ước kể từ ngày món nợ đáo hạn cho đến ngày trả hết nợ; hay từ ngày trái hộ bị kiện, bị đốc thúc và theo lợi xuất pháp định cho đến ngày trả hết nợ. Điều thứ 1193 – Tiền lãi có thể lại sinh lãi, nhưng phải là tiền đã lưu động trong một năm không trả và phải đã có giao ước rõ ràng như thế. Điều thứ 1194 – Số lãi, không cứ bằng tiền bạc hay bằng thực phẩm, bị tiêu diệt thời hiệu sau năm năm kê từ ngày đáo hạn. CHƯƠNG THỨ VI
Nói về sự ký thác và cung thác Điều thứ 1195 – Ký thác là một khế ước trong đó một người nhận lãnh một vật gì của người khác với nghĩa vụ phải gìn giữ và hoàn lại chính đồ vật ấy. Điều thứ 1196 – Sự ký thác chỉ hoàn tất khi nào đồ vật đã giao cho người thụ ký. Điều thứ 1197 – Sự ký thác có hai loại: ký thác thực sự và cung thác. T I Ế T I
Sự ký thác thực sựĐiều thứ 1198 – Sự ký thác là một khế ước vô thường và chỉ động sản có thể là sở vật của sự ký thác. Điều thứ 1199 – Khi người chủ tự ý đem gửi vật cho một người khác giữ hộ thì đó là sự tự ý ký thác. Nếu hoàn cảnh bó buộc ký thác thì đó là sự cưỡng bách ký thác. 1.- Sự tỏ ý ký thác
Điều thứ 1200 – Trong sự tự ý ký thác, người chủ tự mình chọn người thụ ký, và thời gian, địa điểm cho sự ký thác. Điều thứ 1201 – Không riêng người sở hữu chủ mà người nào có lợi cho sự giữ gìn bảo toàn một đồ vật đều có thể đem vật ấy ký thác. Điều thứ 1202 – Sự ký thác chỉ có thể thành lập giữa các người có đủ năng cách pháp lý để lập ước, ngoại trừ sự áp dụng điều 1203 dưới đây. Điều thứ 1203 – Nếu đồ vật được một người vô năng cách giao cho một người có đủ năng cách để giữ hô, người này phải chịu tất cả nghĩa vụ của người thụ ký. Nếu ngược lại, đồ vật được một người có năng cách giao cho một người vô năng cách, người giao chỉ truy hoàn được đồ vật khi nào đồ vật còn do người vô năng cách giữ, hay chỉ đòi được bồi hoàn đến mức độ mà sự ký thác đã làm lợi cho người vô năng cách. Điều thứ 1204 – Người thụ ký phải giữ gìn bảo toàn đồ vật như của chính mình. Điều thứ 1205 – Tuy nhiên, trách nhiệm của người thụ ký sẽ phải xét định chặt chẽ hơn: 1) Nếu chính người ấy đã tự mình xin nhận việc ký thác; 2) Hay nếu đặc biệt người ấy có được trả tiền công; 3) Hay nếu sự ký thác chỉ có lợi riêng cho người thư ký; 4) Hay nếu hai bên đã giao ước là người ký thác phải chịu trách nhiệm về tất cả mọi sự lầm lỗi bất phân lớn nhỏ. Điều thứ 1206 – Người thụ ký không phải chịu trách nhiệm về những tai nạn xẩy ra vì trường hợp bất khả kháng, trừ phi, trước đây, đã bị đốc thúc phải hoàn lại đồ vật. Điều thứ 1207 – Người thụ ký không được dùng đồ vật vào việc riêng của mình nếu không được người chủ cho phép mặc nhiên hay minh thị. Điều thứ 1208 – Nếu đồ vật đưa giữ đựng kín trong bao, trong thùng, người thụ ký không được mở những bao thùng ấy. Điều thứ 1209 – Đồ vật đưa giữ như thế nào, người thụ ký phải trả y nguyên như vậy. Điều thứ 1210 – Người chủ phải chịu những sự hư hao không do người thụ ký gây ra. Người này chỉ phải trả lại đồ vật theo tình trạng lúc giao hòan. Điều thứ 1211 – Nếu đồ vật bị tước đoạt vì một nguyên nhân bất khả kháng, mà người thụ ký có nhận được một số tiền hay một vật gì khác thay thế, người thụ ký phải đem số tiền hay đồ vật ấy giao lại cho người ký thác. Điều thứ 1212 - Nếu thừa kế của người thụ ký, vì không biết, ngay tình đem bán mất đồ vật ký thác thì chỉ phải trả lại giá tiền, nếu người mua chưa trả tiền, người ký thác có thể kiện thẳng người này để đòi giá tiền ấy Điều thứ 1213 – Nếu vật ký thác có sinh hoa lợi, người thụ ký phải hoàn lại cho người ký thác; tuy nhiên, về tiền bạc ký thác, người thụ ký không phải trả lãi; nếu đã bị đốc thúc sẽ chỉ phải trả tiền lời từ ngày đốc thúc. Điều thứ 1214 – Người thụ ký phải trả vật ký thác cho người đã gửi, hay người nào được người ta nhân danh ký gửi, hay cho người nào đã được chỉ danh để thụ lãnh đồ vật. Điều thứ 1215 – Người thụ ký không được bó buộc người đã ký thác phải chứng tỏ quyền sở hữu. Điều thứ 1216 – Tuy nhiên nếu người thụ ký khám phá ra rằng đồ vật là đồ lấy trộm và biết ai là sở hữu chủ, thì phải báo cho người này biết và đốc thúc phải đòi đồ vật trong một thời hạn phải chăng. Đốc thúc này phải tống đạt cho người ký thác. Nếu có kiện tụng thì người thụ ký sẽ giữ đồ vật cho đến khi có quyết định của tòa án, hay đến khi có sự điều đình giữa người ký thác và sở hữu chủ. Quá thời hạn trong đốc thúc làm theo đoạn nhất, nếu sở hữu chủ bị đốc thúc không nhận lại đồ vật ký thác, người thụ ký có quyền giao trả đồ vật cho người ký thác, và được giải nhiệm từ ngày giao hoàn thực sự. Điều thứ 1217 – Nếu người ký thác mệnh một, đồ vật chỉ có thể trả cho thừa kế. Nếu có nhiều thừa kế, những người này phải thỏa thuận vời nhau để lấy mỗi người một phần tài sản ký thác hoặc chỉ định một người trong bọn được thụ lãnh tài sản ấy. Điều thứ 1218 – Nếu khế ước ký thác có chỉ định một địa điểm để giao trả đồ vật, người thụ ký phải mang đến nơi để trả, nhưng người ký thác phải chịu phí tổn chuyên chở. Nếu không có nơi nào khác được chỉ định, đồ vật sẽ được giao trả ở ngay nơi ký thác Điều thứ 1219 – Nếu người ký thác đã đòi, người thụ ký phải giao trả đồ vật ngay tức khắc, dẫu rằng khế ước có ấn định một thời hạn giao trả mà thời hạn ấy chưa tới; trừ phi, người thụ ký đã được tống đạt sai áp chế chỉ về đồ vật ký thác, hoặc một phản kháng hợp lệ cấm sự giao hòan hay xê dịch đồ vật ký thác. Điều thứ 1220 – Người ký thác phải hòan lại cho người thụ ký những chi phí về sự giữ gìn bảo toàn đồ vật và bồi thường mọi sự tổn hại do sự ký thác gây ra. Điều thứ 1221 – Người thụ ký có quyền lưu trì đô vật cho đến khi nào được trả đủ mọi phí khoản thuộc về sự ký thác. Tuy nhiên, nếu người ký thác cho rằng người thụ ký gia tăng quá đáng những phí khoản đồ vật ký thác, thì có thể yêu cầu tòa án khẩn cấp truyền cho người thụ ký giao trả tức khắc đồ vật, sau khi người ký thác cung thác một số tiến phí khỏan hợp lý do tòa án khẩn cấp tạm thời ước lượng, để chờ đợi chính vụ được giải quyết. 2.- Sự ký thác cưỡng bách Điều thứ 1222 – Sự ký thác được coi là vì tình thế cưỡng bách khi nào vì gặp một tai nạn hiểm nghèo, bất thần mà người chủ đồ vật phải đem gửi giữ hộ, để tránh cho đồ vật khỏi bị tiêu hủy. Điều thứ 1223 – Các điều khỏan trên đây vì sự tự ý ký thác đều áp dụng cho sự cưỡng bách ký thác. Điều thứ 1224 – Những người chủ nhà trọ, chủ khách sạn, chủ tiệm ăn phải chịu trach nhiệm như người thụ ký vầ hành trang, đồ vật của khách hàng. Sự ký thác những hành trang, đồ vật này coi như một sự cưỡng bách ký thác. Điều thứ 1225 – Chủ nhà trọ, chủ khách sạn, chủ tiệm ăn phải chịu trách nhiệm về việc trộm cắp, hư hại hành trang, đồ vật của khách hàng, dù kẻ trộm hay kẻ làm hư hại là gia nhân, thừa sai, khách hàng hay người lạ ra vào nơi đó. Tuy nhiên, trách nhiệm trên đây chỉ giới hạn đến 100.000$00 cho tiền bạc, hay đồ trang sức, đồ vật quí giá đã thực sự không giao tay cho người chủ giữ hộ. Điều thứ 1226 – Chủ nhà trọ, chủ khách sạn, chủ tiệm ăn không phải chịu trách nhiệm về những vụ trộm cướp có vũ khí. T I Ế T II
Sự cung thác hay quyền trữĐiều thứ 1227 – Sự cung thác có thể do hai bên đương sự thỏa thuận, đó là cung thác tương thuận; hay do tòa án quyềt định: đó là tư pháp cung thác. Điều thứ 1228 – Khi nhiều người tự nhận là sở hữu chủ hay cùng đòi chấp hữu một đồ vật, họ có thể thỏa thuận giao đồ vật ấy cho một người đệ tam coi giữ cho đến khi sự tranh chấp được giải quyết để người đệ tam trả cho người nào được công nhận là có quyền. Sự ký thác vật tương tranh trong tay người đệ tam như vậy, là sự cung thác hay quyền trữ. Điều thứ 1229 - Sự cung thác có thể được trả tiền công hay không có tiền công. Điều thứ 1230 – Động sản cũng như bất động sản đều có quyền cung thác. Điều thứ 1231 – Trước khi sự tranh chấp chấm dứt, cung thác viên chỉ có thể được giải trừ nhiệm vụ do sự thỏa thuận của các đương sự hay nếu có duyên cớ được xét là chính đáng. Điều thứ 1232 – Sự cung thác hay quyền trữ cũng có thể do tòa án quyết định, nếu xét cần, nhất là: 1) Về những động sản sai áp của một trái hộ; 2) Về động sản hay bất động sản mà quyền sở hữu hay sự chấp hữu bị tranh chấp giữa nhiều người; 3) Về những vật mà trái hộ đề nghị trả để được giải thích. Điều thứ 1233 – Cung thác viên nếu còn được giao nhiệm vụ quản trị tài sản cung thác, phải thu hoạch lợi ích nếu có, để sau này thanh toán. Điều thứ 1234 – Ngoài ra các điều khoản về sự ký thác đều áp dụng cho sự cung thác. CHƯƠNG THỨ VIINói về những khế ước bất trắcĐiều thứ 1235 – Khế ước bất trắc là khế ước song phương mà hậu quả - làm lợi hay làm thiệt cho những người kết ước – tùy thuộc vào một biến cố không chắc chắn. Bài bạc, đánh cuợc (đánh cá) là những khế ước bất trắc. Điều thứ 1236 – Luật pháp không công nhận một tố quyền nào để dòi nợ đánh bạc hay cá cược. Điều thứ 1237 – Điều luật trên đây không áp dụng cho những trò chơi luyện tập thể dục, nhưng tòa vẫn có thể bác đơn nếu món tiền đòi trong đơn khởi tố xét ra quá đáng. Điều thứ 1238 – Nếu người thua trong các khế ước bất trắc đã thuận ý trả tiền rồi thì không được đòi lại, trừ phi, người thắng đã dùng mưu chước gian dối để thắng. CHƯƠNG THỨ VIIINói về khế ước ủy quyền (hay ủy thác) T I Ế T IHình thức và tính chất của khế ước ủy quyềnĐiều thứ 1239 – Ủy quyền là một khế ước do đó một người trao quyền cho một người khác để nhan danh mình làm một hành vi gì. Khế ước chỉ hoàn thành khi nào được trao quyền đã thuận nhận. Người trao quyền gọi là người chủ ủy. Ngưòi nhận quyền gọi là thụ ủy. Điều thứ 1240 – Có thể ủy nhiệm bằng văn thư hoặc khẩu ước. Sự thuận nhận có thể mặc nhiên, khi người thụ ủy đã thi hành nhiệm vụ được ủy thác. Điều thứ 1241 - Sự ủy quyền có tính cách vô thường nhưng hai bên có thể giao ước trái lại. Điều thứ 1242 – Sự ủy quyền có thể được đặc định tức là chỉ nhằm riêng một việc hay một số công việc nhất định, hoặc tổng quát tức là bao gồm tất cả công việc của người chủ ủy. Điều thứ 1243 – Sự ủy quyền, nếu được ưng thuận một cách đại cương, chỉ cho phép người thụ ủy làm những hành vi quản trị: muốn đoạn mai, cầm cố hay làm hành vi gì thuộc về quyền tư hữu, người thụ ủy phải được ủy thác rõ rệt. Điều thứ 1244 – Người thụ ủy không được làm hành vi gì ngoài phạm vi sự ủy quyền. T I Ế T IINghĩa vụ của người thụ ủyĐiều thứ 1245 – Người thụ ủy, còn được ủy thác, phải thi hành nhiệm vụ đã được ủy thác và phải chịu trách nhiệm về mọi thiệt hại xẩy ra vì những lỗi lầm trong sự thi hành đã đảm nhiệm. Dầu bất thần người thụ ủy mệnh một, người thụ ủy vẫn phải tiếp tục thi hành nếu sự thi hành không thể bỏ đở được. Điều thứ 1246 – Người thụ ủy không những phải chịu trách nhiệm về sự gian trá của mình, mà còn phải chịu trách nhiệm cả về những lỗi lầm trong khi thi hành nhiệm vụ. Tuy nhiên, trách nhiệm về những lỗi lầm của người thụ ủy không được thù lao sẽ được xét định khoan hồng hơn là đối với người thụ ủy có thù lao. Điều thứ 1247 – Khi sự ủy quyền đã chấm dứt, hay bất cứ lúc nào, nếu người chủ ủy yêu cầu, người thụ ủy phải tường trình về công việc đã làm. Điều thứ 1248 – Người thụ ủy phải hoàn lại tất cả tiền bạc hay tài vật đã nhận thay cho người chủ ủy nhận sự ủy quyền, nhưng được khấu trừ đi những số tiền chi phí về sự thi hành ủy thác. Điều thứ 1249 – Người thụ ủy tự tiện dùng tiền bạc của người chủ ủy vào việc riêng của mình, phải đương nhiên chịu tiền lời kể từ ngày dùng, chưa kể phải bồi thường thiệt hại, nếu có. Điều thứ 1250 – Nếu nhờ người khác thay thế mình, người thụ ủy phải chịu trách nhiệm về hành vi của người này: 1) Nếu giấy tờ không minh thị dự liệu rằng người ấy được nhờ người khác thay thế; 2) Và mặc dầu giấy ủy quyền có cho phép, nếu người thụ ủy đã chọn một người hiển nhiên thiếu khả năng hay vô tư sản để thay thế. Trong mọi trường hợp, người chủ ủy đều có quyền trực tố người thay thế cho người thụ ủy. Điều thứ 1251 – Khi nhiều người cùng được ủy quyền bằng một chứng thư, họ chỉ chịu trách nhiệm liên đới nếu giấy ủy quyền có nói rõ. Điều thứ 1252 – Người thụ ủy không phải chịu trách nhệim bản thân đối với người đệ tam về những hành vi đã làm với người này nhân danh người chủ ủy, trừ phi người thụ ủy đã cam kết chịu trách nhiệm hay đã tự nhận là có quyền ủy thác để hành động mà thực ra không có. Nếu sự khước từ không có lý do cần thiết hay chính đáng và làm thiệt hại cho người chủ ủy, người thụ ủy phải bồi thường. Đìều thứ 1253 – Nếu người thụ ủy không biết rằng người chủ ủy đã mệnh một mà cứ tiếp tục công việc, những hành vi này đều hữu hiệu, nhưng người thụ ủy phải chứng tỏ rằng vào lúc đó, không biết rằng người chủ ủy đã mệnh một. CHƯƠNG THỨ IX
Khế ước lập hội T I Ế T ITổng tắcĐiều thứ 1264 – Khế ước lập hội là khế ước theo đó hai hay nhiều người đồng ý góp công, góp của để hoạt động với mục đích kiếm được lời cùng chia, nhưng nếu thua lỗ cùng chịu. Điều thứ 1265 – Hội đoàn thành lập như trên có tính cách dân sự hay thương sự tùy theo mục tiêu của hội đoàn là những hành vi dân sự hay hành vi thương mại. Điều thứ 1266 – Tuy nhiên, những hội đoàn thành lập dưới một trong những hình thức dưới đây đều là hội buôn, bất kể mục tiêu của hội đoàn có tính cách dân sự hay thương sự: 1) Công ty cổ phần, 2) Công ty trách nhiệm hữu hạn. Điều thứ 1267 – Chương này chỉ áp dụng cho các hội buôn về những điểm không trái với luật lệ thương mại. Điều thứ 1268 – Tiền bạc, tài sản hay công lao của mỗi hội viên góp vào hội là phần hùn của hội viên ấy. Phần hùn của các hội viên có thể không đồng đều. Điều thứ 1269 – Hội đoàn nào cũng phải có mục tiêu hợp pháp, và thành lập nhằm quyền lợi chung của tất cả các hội viên. Điều thứ 1270 – Lập hội phải làm văn tự nếu số vốn trên 100.000$00. Phần hùn bằng công lao sẽ phải trị giá theo sự thỏa thuận của các người lập hội, để ước lượng số vốn của hội. Nếu có phần hùn bằng bất động sản, khế ước phải làm theo hình thức công chứng thư và phải đăng ký vào sổ bộ điền thổ. Điều thứ 1271 – Nếu lập hội có văn tự thì, bất kể số vốn là bao nhiêu, không được viện dẫn nhân chứng để chứng tò sự việc gì trái với văn tự. T I Ế T II
Quyền lợi và nghĩa vụ của các hội viênĐiều thứ 1272 – Hội khởi đầu từ ngày ký khế ước, nếu không ấn định ngày khác. Cùng ngày ấy mỗi hội viên phải mang phần hùn góp cho hội, nếu không, phải đương nhiên chịu lãi hay hoa lợi của phần hùn, chưa kể phải bồi thường mọi sự thiệt hại khác, nếu có. Điều thứ 1273 – Hội viên đã cam kết góp công lao vào hội mà khiếm khuyết nghĩa vụ, phải bồi thường cho hội về sự khiếm khuyết ấy. Điều thứ 1274 – Hội viên nào đã cam kết góp vào hội một đồ vật thực thể, không cừ là động sản hay bất động sản – sẽ có trách vụ phải bảo đảm cho hội, cũng như một người bán, về mọi sự truất đoạt, quấy rối, về số lượng, diện tích và ẩn tì của đồ vật. Nếu hội viên chỉ cam kết cho hội được hưởng dụng đồ vật thì sẽ có trách vụ bảo đảm của một người cho thưê. Điều thứ 1275 – Mỗi hội viên có quyền hùn hiệp với người đệ tam về kỷ phần của mình trong hội, nhưng không có quyền đem người đệ tam ấy nhập hộ, nếu không có sự ưng thuận của các hội viên khác. Điều thứ 1276 – Đều vô hiệu những điều khoản nào dành riêng cho một hội viên hay một số hội viên tất cả lời lãi của hội, hay miễn cho họ không phải chịu một phần thua lỗ nào. Điều thứ 1277 – Nếu khế ước không phân định kỷ phần lỗ lãi cho mỗi hội viên, kỷ phần ấy sẽ tính theo tỷ lệ phần hùn của mỗi người đã góp vào hội. Đối với người đã góp phần hùn bằng công lao, phần này sẽ coi như phần hùn nhỏ nhất bằng tài sản. T I Ế T IIISự quản trị hội đòanĐiều thứ 1278 – Cách quản trị hội đoàn phải chiếu theo khế ước lập hội, nếu khế ước thiếu sót thì sẽ áp dụng các thể lệ sau đây: Điều thứ 1279 – Hội viên nào được khế ước lập hội chỉ định làm quản lý, có quyền làm tất cả những việc thuộc về quản trị, dẫu rằng các hội viên khác không đồng ý, miễn là không hành động cách giản dị. Điều thứ 1280 – Người quản lý được chỉ định trong khế ước lập hội chỉ có thể bị truất bãi, nếu có nguyên nhân chính đáng. Nhưng nếu được chỉ định do một văn thư khác, sau khi hội đã thành lập, người quản lý lúc nào cũng có thể bị truất quyền như một người thụ ủy. Điều thứ 1281 – Nếu có nhiều người cùng được cử làm quản lý mà chức vụ của mỗi người không ấn định rõ ràng và hội quy cũng không bắt buộc họ cùng phải đồng ý mới được hành động, mỗi người đều có quyền riêng để làm những công việc thuộc về quản trị. Điều thứ 1282 – Nếu những người quản lý đã được chỉ định với điều kiện phải cùng nhau thỏa thuận hành động thì không người nào được quyền tự quyết bất kể trong trường hợp nào, dẫu rằng người đồng quản lý bị cản trở không tham dự được vào việc quản trị cũng vậy. Trừ phi có sự giao ước mới cho phép một quản lý được riêng mình hành động. Điều thứ 1283 – Nếu giữa các hội viên không có sự giáo ước gì về công việc quản trị, mỗi hội viên đều có quyền làm những việc ấy: hành động của hội viên này có hiệu lực đối với các hội viên khác, nhưng mỗi người đều có quyền phản kháng trước khi công việc được làm để hội quyết định theo đa số hội viên dự bàn. Mỗi hội viên có quyền dùng tài sản của hội, miễn là không hành động trái với quyền lợi của hội và không cản trợ quyền lợi của hội viên khác. Mỗi hội viên có quyền buộc các hội viên khác phải góp phần vào những chi tiêu cần thiết cho sự bảo tồn của hội. Điều thứ 1284 – Ngoài công việc quản trị, những biện pháp phải sử dụng để thi hành hội quy đều do đa số hội viên dự bàn quyết định như thay thế quản trị viên mệnh chung, từ chức hay bị truất bãi. Điều thứ 1285 – Tất cả những sửa đổi hội quy và những công việc không có dự liệu trước trong hội quy đều phải do tòan thể hội viên quyết định. Trừ phi hội quy hay luật pháp có định khác. Điều thứ 1286 – Bất kể hội viên nào, dầu là quản trị hay không, phải bồi thường cho hội về những thiệt hại do sự lầm lỗi hay sơ xuất của người ấy đã gây ra cho hội. Những sự thiệt hại ấy không được bù trừ với những lợi lộc mà hội viên có thể mang lại cho hội về những công việc khác, trừ phi những công việc bị thiết và những công việc được lợi có liên hệ với nhau. Điều thứ 1287 – Hội viên nào đã lãnh việc quản trị chỉ vì không có quản lý được chỉ định, chỉ phải chịu trách nhiệm về những lỗi lầm của mình nếu đã trông nom, quản trị công việc không được cẩn trọng như công việc của chính mình. Điều thứ 1288 – Dù là quản trị viên hay không, hội viên nào cũng có quyền hoàn lại mọi số tiền đã ứng trước để chi tiêu cho hội, hoặc buộc hội phải duyệt y những khế ước mà ngay tình họ đã ký kết để làm lợi cho hội. Hội viên cũng có quyền được bồi hoàn về mọi sự thiệt hại đã phải chịu nhân sự quản trị của hội. T I Ế T IVNói về sự tan rã hội đoànĐiều thứ 1289 – Hội đoàn tan rã: 1) Khi nào khế ước lập hội mãn hạn; 2) Khi nào mục tiêu của hội đã đạt hay vì tình thế không thể đạt được; 3) Khi vốn của hội đã hoàn toàn tiêu thất; 4) Do sự mệnh một, khánh tận hay cấm quyền của một hội viên, trừ phi hội quy đã quy định trước rằng luật sẽ tiếp tục với các thừa kế, hay tiếp tục giữa các hội viên còn lại; 5) Do sự tiêu thất tài sản của một hội viên phải góp vào hội, nếu tài sản ấy chưa được giao cho hội; 6) Do ý định của toàn thể hội viên. Điều thứ 1290 – Sự triển kỳ thời hạn của hội doàn cũng theo những thể lệ đã dặt cho việc lập hội. Tuy nhiên sự triển kỳ được coi như mặc nhiên, nếu sau khi hết hạn, cá hội viên đều vẫn tiếp tục hoạt động về công việc của hội. Điều thứ 1291 – Hội viên chỉ có thể xin giải tàn hội đoàn trước khi mãn hạn nếu có lý do chánh đáng, chẳng hạn khi có hội viên không chịu thi hành nghĩa vụ của mình, hay vì bệnh tật không thi hành được nhiệm vụ của hội giao cho, hay có sự bất hòa giữa các hội viên làm cản trở công việc của hội, hay vì một lý do gì khác tùy sự thẩm lượng của thẩm phán. Điều thứ 1292 – Trong một hội vô hạn định, một hay nhiều hội viên đều có quyền xin ra hội,, hội đoàn tiếp tục với số hội viên còn lại, trừ phi chỉ còn lại một hội viên, hoặc hội quy đã định trước rằng hội đoàn phải tan rã. Điều thứ 1293 - Hội viên muốn xin ra hội trong trường hợp nói trên tại điều luật trên phải tống đạt ý định của mình cho tất cả các hội viên khác. Các hội viên này có thể không chấp thuận nếu xét rằng việc ra hội có nguyên nhân gian tình hay có hậu quả bất lợi cho hội. Điều thứ 1294 – Việc ra hội có tính cách gian tình khi nào hội viên xin ra hội để riêng mình làm lấy và hưởng lợi về một công việc do người ấy đang làm dở dang cho hội. Điều thứ 1295 – Trong trường hợp một hội viên mệnh một mà hội đoàn tiếp tục giữa các hội viên còn lại, các thừa kế của người mệnh một chỉ được hưởng: 1) Quyền lợi của người này theo tình trạng của đôi khi mệnh một; 2) Quyền lợi nào của người quá cố là hậu quả trực tiếp và tất nhiên của những công việc mà hội đã làm trước khi mệnh một. Điều thứ 1296 – Nếu hội quy đã định rằng hội đoàn tiếp tục với các thừa kế của người mệnh một, các thừa kế này đương nhiên thành hội viên, dẫu rằng trong số các thừa kế có người còn vị thành niên. T I Ế T V
Nói về sự thanh toán và phân chia hội đoànĐiều thứ 1297 – Sau khi giải tán, hội đòan phải thanh toán và phân chia. Phải thanh toán trước rồi phân chia sau. Sự thanh tóan và phân chia sẽ được làm chiếu theo quyết định hội quy hoặc nếu hội quy không dự liệu, theo sự thỏa thuận của các hội viên. Nếu không thỏa thuận được với nhau, sự thanh toán và phân chia được làm theo các điều luật sau. Điều thứ 1298 – Sự thanh toán gồm có những việc: a) Hoàn tất những công việc đang làm dở dang; b) Trả những trái vụ, tức trả những công nợ do hội còn thiếu của người đệ tam và thu những trái quyền, tức là thu những món nợ do người đệ tam thiếu của hội; c) Kết thúc tình trạng kế toán riêng của mỗi hội viên đối với hội; d) Ấn định phần lãi của mỗi hội viên được hưởng, hoặc phần lỗ của mỗi hội viên phải chịu. Điều thứ 1299 – Sự thanh toán sẽ do tất cả các hội viên cùng làm, hay do một vài người đảm nhận, hoặc do một người đệ tam được chỉ định theo đa số hội viên dự bàn. Nếu các hội viên không hiệp ý được để lựa chọn người thanh tóan, một hội viên có thể theo thủ tục cấp thẩm xin tòa chỉ định. Điều thứ 1300 – Trong mọi trường hợp, thanh toán viên phải bán những tài sản nào dễ bị hư hại không giữ được lâu. Đều thứ 1301 – Nếu cần để trả nợ, thanh toán viên có thể bán những bất động sản thừơng dùng. Nếu cần bán bất động sản hay chứng khóan, hoặc điều đình về một điều gì, thanh tóan viên phải được đa số hội viên cho phép – đa số này là đa số hội viên dự bàn để quyết định về việc đoạn mại hay điều đình. Điều thứ 1302 – Thanh toán viên có quyền làm những hành vi bảo tồn quyền lợi của hội, khởi tố và theo kiện trước tòa án nhân danh hợi coi như còn tồn tại trong thời gian thanh toán. Điều thứ 1303 – Sau khi hoàn tất, việc thanh tóan phải được tường trình cho tất cả các hội viên trong một buổi đại hội do thanh toán viên triệu tập để chuẩn y. Hội viên sẽ biểu quyết theo đa số những ngừơi dự bàn. Hội viên vắng mặt có thể ủy quyền cho một hội viên khác biểu quyết. Có thể biểu quyết về toàn thể phúc trình của thanh toán viên, hoặc biểu quyết riêng về mỗi vấn đề trong phúc trình. Điều thứ 1304 – Trách nhiệm của thanh toán viên là trách nhiệm của người thụ ủy. Hiệu lực những hành vi của thanh toán viên, đối với các hội viên và đối với người đệ tam là hịệu lực hành vi của người thụ ủy. Điều thứ 1305 – Sau khi thanh toán, những tài sản còn lại sẽ được thanh tóan viên phân chia cho các hội viên theo hội quy và lâm thời, theo thể lệ đã định trong luật này về việc phân chia di sản. CHƯƠNG THỨ X
Nói về sự điều đìnhĐiều thứ 1306 – Điều đình là một khế ước theo đó các đương sự nhượng bộ lẫn nhau để chấm dứt một sự tranh chấp đã pháp sinh hay để phòng ngừa một sự tranh chấp có thể xẩy đến. Điều thứ 1307 – Muốn điều đình phải có đủ năng cách pháp lý để sử dụng quyền lợi và tài sản, mục tiêu của sự điều đình. Người giam hộ chỉ có thể điều đình thay mặt cho vị thành niên hay người bị cấm quyền, theo những thể thức đã định ở điều 325 bộ luật này. Người giám hộ chỉ có thể điều đình với vị thành niên đã trưởng thành, về công việc giám hộ, hai tháng sau khi đã giao cho người này bản khai trình kế tóan về việc giám hộ theo điều 329 cùng giấy tờ minh xác. Điều thứ 1308 – Việc điều đình phải được xác nhận bằng văn tự. Nếu điều đình về bất động sản, văn tự phải làm dưới hình thức công chứng thư. Điều thứ 1309 – Có thể điều đình về quyền lợi dân sự phát sinh do một sự phạm pháp, nhưng không thể điều đình về chính sự phạm pháp, cũng như về tất cả những vấn đề liên quan đến trật tự công cộng. Điều thứ 1310 – Trong văn thư điều đình, hai bên có thể dự liệu sự trừng phạt để áp dụng cho bên nào không chịu tuân hành. Điều thứ 1311 – Điều đình về việc gì thì chỉ riêng việc ấy chấm dứt: sự khước từ quyền lợi được nêu lên trong văn thư điều đình chỉ có nghĩa là khước từ những quyền lợi liên quan đến việc tranh chấp do sự điều đình chấm dứt. Điều thứ 1312 – Sự điều đình với một đương sự không có hiệu lực đối với những đương sự khác và những người này cũng không nại được sự điều đình. Điều thứ 1313 – Giữa các người đã điều đình với nhau, sự điều đình có uy lực quyết tụng của một án văn chung thẩm; không bên nào còn có thể viện lẽ bị thiệt thòi hay bị lầm lẫn về pháp lý để khiếu tố nữa. Điều thứ 1314 – Tuy nhiên, sự điều đình có thể bị tiêu hủy nếu có lầm lẫn về đối tượng của việc điều đình; hay nếu một bên đã dùng bạo hành; hoặc mưu gian chước dối để điều đình. Điều thứ 1315 – Sự điều đình cũng có thể bị tiêu hủy nếu là điều đình về quyền lợi xuất phát ở một văn thư vô hiệu, trừ phi hai bên có điều đình cả về sự vô hiệu ấy. Điều thứ 1316 – Sự điều đình sẽ hoàn toàn vô hiệu nếu căn cứ vào những giấy tờ sau này xét ra là giấy tờ giả mạo. Điều thứ 1317 – Sự điều đình về một vụ tranh tụng kết liễu bằng một án văn đã thành nhất định cũng vô hiệu, nếu khi điều đình hai bên chưa biết án văn ấy. Tuy nhiên, đương sự được một án văn nhất định có thể điều đình để tránh những sự khó khăn về chấp hành án văn ấy. Điều thứ 1318 – Nếu sau khi điều đình xong, lại tìm thấy giấy tờ do một bên dụng tâm giữ lại vì có lợi cho bên kia, sự điều đình sẽ vô hiệu. Điều thứ 1319 – Nếu giấy tờ mới tìm thấy chứng tỏ rằng một bên đương sự không có quyền lợi gì hết để điều đình, thì mặc dầu giấy tờ không do bên nào giữ lại sự điều đình cũng vô hiệu. Tuy nhiên, sự điều đình sẽ được giữ nguyên nếu là điều đình vầ tât cả các việc tranh chấp hiện có giữa hai bên và nếu một bên đương sự chỉ không có quyền lợi riêng về một khỏan điều đình. Điều thứ 1320 – Những sự sai lầm về tóan số trong văn thư điều đình có thể được sửa lại. THIÊN THỨ VI
Nói về những khế ước bảo chứng Và những vật quyền phụ thuộcĐiều thứ 1321 – Khế ước bảo chứng là những khế ước có mục đích bảo đảm quyền lợi cho chủ nợ trong trường hợp trái hộ lâm vào tình trạng vô tư lực không trả được nợ. Muốn được hữu hiệu, khế ước bảo chứng phải làm bằng văn tự, ngoại trừ về thể lệ riêng về luật thương mại. Điều thứ 1322 – Sự bảo chứng có thể thành tựu: 1) Do một người nhận bảo lãnh cho trái hộ và cam kết sẽ trả nợ thay thế cho người này nếu người này không trả; 2) hay do trái hộ đem một hoặc nhiều tài sản sung dụng riêng vào việc trả nợ. - Trường hợp thứ nhất là sự bảo chứng đối nhân tức là sự bảo lãnh. - Trường hợp thứ hai là sự bảo chứng đối vật, tạo ra cho chủ nợ một vật quyền trên tài sản đã sung dụng đễ trả nợ: đó là sự điển áp hay thế chấp và sự để đương. CHƯƠNG THỨ NHẤT
Nói về sự bảo lãnh T I Ế T ITính chất và giới hạn của sự bảo lãnhĐiều thứ 1323 – Người nào nhận bảo lãnh một nghĩa vụ tức là cam kết với trái chủ sẽ thi hành nghĩa vụ ấy, nếu chính trái hộ không thi hành. Điều thứ 1324 – Sự bảo lãnh chi có giá trí nếu nghĩa vụ chính cũng có nghĩa vụ. Tuy nhiên, sự bảo lãnh vẫn có giá trị mặc dầu nghĩa vụ chính vô hiệu về một nguyên nhân riêng biệt về phần người giám hộ vì dụ vì người này còn vị thành niên. Điều thú 1325 – Sự bảo lãnh không thể được suy đoán mà phải có sự cam kết minh thị rõ ràng. Điều thứ 1326 – Sự bảo lãnh không thể vượt quá phạm vi nghĩa vụ chính, cũng không thể được ghép vào những điều kiện nặng nề hơn nghĩa vụ chính. Nhưng có thể chỉ bảo lãnh một phần món nợ, hoặc với những điều kiện dễ dãi, nhẹ nhàng hơn nghĩa vụ chính. Sự bảo lãnh quá phạm vi nghĩa vụ chính, hay nặng nề hơn nghĩa vụ chính không vì thế mà vô hiệu; sẽ phải chỉ giảm bớt đi cho vừa tầm nghĩa vụ chính. Điều thứ 1327 – Có thể bảo lãnh cho một người mà không cần ngưới này biết. Cũng có thể bảo lãnh cho một người bảo lãnh khác. Điều thứ 1328 – Sự bảo lãnh vô hạn định bao gồm cả nghĩa vụ chính và các phụ khoản, kể cả các tụng phí. Điều thứ 1329 – Nếu người bảo lãnh trở nên vô tư lực, trái hộ phải tìm một người khác thay thế, trừ phi người trước đã do chính phủ nợ lựa chọn. T I Ế T II
Hậu quả của sự bảo lãnh1.- Hậu quả giữa chủ nợ với người bảo lãnh Điều thứ 1330 – Người bảo lãnh không thể bị đòi hỏi trước khi món nợ đáo hạn. Dẫu trái hộ bị truất hạn kỳ, người bảo lãnh vẫn được hưởng hạn kỳ ấy. Điều thứ 1331 – Chủ nợ có thể truy sách người bảo lãnh đồng thời với trái hộ chính, hoặc trước hay sau trái hộ chính. Tuy nhiên, trong hai trường hợp trên, người bảo lãnh có quyền viện dẫn biệt lợi hậu truy. Điều thứ 1332 – Viện dẫn biệt lợi hậu truy là đòi trái chủ phải truy sách người trái hộ chính trước. Muốn vậy người bảo lãnh phải viện dẫn khước biện này ngay sau khi bị truy sách và phải chỉ định cho chủ nợ biết những tài sản nào của trái hộ có thể chấp hành được để trả nợ. Những tài sản này phải là những tài sản ở trong quản hạt tòa thượng thẩm nơi phải trả nợ và không bị người nào tranh chấp. Điều thứ 1333 – Nếu người bảo lãnh đã chỉ định tài sản theo điều trên mà chủ nợ không truy sách, chủ nợ sẽ phải chịu thiệt riêng, tới mức giá trị những tài sản ấy, không còn trách cứ được người bảo lãnh nếu xẩy ra trường hợp trái hộ trở thành vô tự lực. Điều thứ 1334 – Những điều 1332, 1333 sẽ không áp dụng cho người bảo lãnh đã từ khước biệt lợi hậu truy hay đã cam kết liên đới với trái hộ chính. Điều thứ 1335 – Nếu có nhiều người cùng bảo lãnh một món nợ, mỗi người phải chịu trách nhiệm về tất cả món nợ. Điều thứ 1336 – Tuy nhiên, mỗi người bảo lãnh đều có quyền đòi chủ nợ phân chia món nợ giữa các người bảo lãnh, trừ phi họ đã khước từ biệt lợi phân chia này. Điều thứ 1337 – Nếu chủ nợ đã tự ý phân chia sự truy sách giữa các người bảo lãnh thì không thể còn thay đổi ý kiến đòi riêng người bảo lãnh nào phải trả tất cả món nợ. 2.- Hậu quả giữa trái hộ với người bảo lãnh Điều thứ 1338 – Người bảo lãnh đã trả nợ có quyền khiếu tố đòi trái hộ chính tiền vốn, tiền lời và phí tổn. Điều thứ 1339 – Người bảo lãnh đã trả nợ được kế vị chủ nợ trong tất cả quyền lợi của người này. Điều thứ 1340 – Nếu có nhiều trái hộ liên đới trong cùng một món nợ và cùng được bảo lãnh, người bảo lãnh có quyền khiếu tố riêng từng người để đòi lại tất cả số tiền người ấy đã trả cho chủ nợ. Điều thứ 1341 – Người bảo lãnh, nếu trả tiền cho chủ nợ mà không báo cho chủ nợ biết để người này lại trả một lần thứ hai, sẽ không khiếu tố được trái hộ mà chỉ có thể đòi chủ nợ phải hòan lại. Người bảo lãnh không bị truy sách lại trả tiền cho chủ nợ không báo cho trái hộ biết, sẽ không khiếu tố được người này, nếu vào lúc nợ được trả, trái hộ ở vào trường hợp có thể nại rằng món nợ đã tiêu trừ, nhưng cũng có thể đòi chủ nợ phải hoàn lại. Điều thứ 1342 – Người bảo lãnh dầu chưa trả nợ, cũng có thể kiện trái hộ để đòi trái hộ bồi thường: 1) Nếu người bảo lãnh đã bị chủ nợ kiện đòi nợ; 2) Nếu trái hộ bị khánh tận hay vỡ nợ dân sự; 3) Nếu trái hộ đã cam kết sẽ giải trừ nghĩa vụ cho người bảo lãnh trong một thời gian àno đó; 4) Nếu món nợ đã đáo hạn. 3.- Hậu quả giữa các người bảo lãnh
Điều thứ 1343 – Nếu nhiều người cùng bảo lãnh cho một người cùng về một món nợ, người bảo lãnh nào đã trả nợ có quyền khiếu tố những người kia để đòi mỗi người phần mà họ phải trả. T I Ế T III
Nói về sự tiêu trừ bảo lãnhĐiều thứ 1344 – Sự bảo lãnh bị tiêu trừ do tất cả những nguyên nhân làm tiêu trừ nghĩa vụ. Điều thứ 1345 – Nếu có sự hỗn nhập tư cách của trái hộ chính với người bảo lãnh vì người nọ được thừa kế người kia, chủ nợ vẫn có thể truy sách người đã nhận bảo lãnh cho người bảo lãnh. Điều thứ 1346 – Người bảo lãnh có thể đem đối kháng với chủ nợ tất cả những khước biện liên thuộc vào món nợ mà trái hộ chính có thể viện dẫn, nhưng không nại được những khước biện nào hòan toàn thuộc về cá nhân người trái hộ. Điều thứ 1347 – Người bảo lãnh được giải trừ nghĩa vụ nếu chủ nợ có sự sơ xuất hay lầm lỗi làm cho người bảo lãnh không còn được kế vị người chủ nợ để hưởng quyền lợi của người này. Điều thứ 1348 – Nếu chủ nợ đã nhận một tài sản gì của trái hộ để trả nợ thay món nợ chính, người bảo lãnh cũng được giải trừ nghĩa vụ, dẫu rằng sau này chủ nợ có bị truất đoạt mất tài sản ấy. Điều thứ 1349 – Nếu chủ nợ gia hạn cho trái hộ chính, người bảo lãnh không vì thế mà được giải trừ nghĩa vụ, nhưng cũng được hưởng sự gia hạn như trái hộ chính. CHƯƠNG THỨ IINói về sự thế chấp T I Ế T INói về sự thế chấp động sản hay cầm đồĐiều thứ 1350 – Cầm đồ là khế ước do đấy, trái hộ giao cho chủ nợ một động sản để bảo đảm cho món nợ. Do sự bảo đảm này, chủ nợ được quyền ưu tiên lấy nợ trước các chủ nợ khác trên đồ vật đã cầm. Điều thứ 1351 – Khế ước cầm đồ phải có văn tự xác nhận mới có giá trị, nếu món nợ trên hai chục ngàn đồng (20.000$00). Văn tự phải ghi rõ số tiền vay và đồ vật cầm là đồ vật gì. Không những thế, việc cầm đồ chỉ được hoàn tất, và chủ nợ chỉ được quyền ưu tiên nếu đồ vật đã giao cho chủ nợ và cần được chủ nợ chấp hữu. Tuy nhiên, hai bên cũng có thể thỏa thuận giao đồ vật cho một người đệ tam chấp hữu. Điều thứ 1352 – Nếu đồ vật đem cầm là một động sản vô hình, như một trái quyền, khế ước phải được tống đạt cho người nợ trái quyền áy. Điều thứ 1353 – Một người đệ tam có thể đem một đồ vật của mình đem cho chủ nợ làm vật bảo đảm cho người vay nợ. Điều thứ 1354 – Nếu khế ước không định thời hạn trả nợ, thời hạn này sẽ là một năm. Điều thứ 1355 - Chủ nợ không được hưởng hoa lợi, cũng không đươc dùng đồ cầm trừ phi có giao ước trái lại. Điều thứ 1356 – Chủ nợ phải giữ và phải chăm nom đồ vật, đem cầm, nếu vì sơ xuất hay lỗi lầm để cho đồ vật bị mất hay bị hư hại, sẽ phải chịu trách nhiệm. Ngược lại, người vay nợ, phải bồi hoàn cho chủ nợ những chi tiêu nào xét ra là cần ích để giữ gìn đồ vật. Điều thứ 1357 – Khi món nợ đáo hạn, chủ nợ, nếu đã được trả, phải hoàn lại đồ vật. Nếu chưa được trả, chủ nợ có quyền cứ giữ đồ vật. Điều thứ 1358 – Nếu chủ nợ lạm dụng đồ cầm, vi phạm những điều 1355 và 1356 trên đây, trái hộ có quyền đòi chủ nợ phải giao trả lại đồ vật. Điều thứ 1359 – Chủ nợ không đương nhiên thành sở hữu chủ vật cầm. Nếu không được trả nợ khi đáo hạn chủ nợ phải xin đấu giá phát mại đồ vật ấy, hoặc xin tòa cử giám định viên trị giá đồ vật để cho phép chủ nợ giữ lại đồ vật mà trừ nợ tới giá ước lượng; nếu đồ vật được trị giá cao hơn, chủ nợ cũng có thể được giữ đồ vật và trả thêm cho trái hộ số sai biệt. Điều thứ 1360 – Đồ vật đem cầm không thể được đem chia, dẫu rằng món nợ được phân chia giữa các thừa kế của chủ nợ hay trái hộ. Một thừa kế của trái hộ, dẫu đã trả phần nợ mà người ấy phải đảm trách, cũng không có quyền đòi kỷ phần trong đồ vật cầm cố, nếu nợ chưa trả đủ. Ngược lại, một thừa kế của chủ nợ dẫu đã được trả kỷ phần trong trái quyền được hưởng, cũng không có quyền giao trả đồ cầm cho trái hộ để làm thiệt hại cho các thừa kế khác chưa được trả nợ. Điều thứ 1361 – Những điều khoản trên đây không áp dụng cho những tiệm cầm đồ, đã có thể lệ riêng. T I Ế T IINói về thế chấp bất động sảnĐiều thứ 1362 – Thế chấp bất động sản là giao cho chủ nợ một bất động sản để bảo đảm cho một món nợ: cho đến khi được trả đủ nợ, chủ nợ có quyền giữ bất động sản làm tin. Điều thứ 1363 – Bất động sản có thể giao cho chủ nợ một cách thực sự cho người ấy chấp hữu, hay chỉ giao một cách giả định bằng cách đưa bằng khóan cho chủ nợ, hay đem văn tự tạo mãi nếu bất động sản chưa có bằng khoán. Điều thứ 1364 – Sự thế chấp phải do một công chính chứng thư tạo lập. Có thể thỏa thuận thế chấp ngay trong khế ước chính hay trong một văn thư riêng bệit. Chứng thư phải đăng ký vào sổ điền địa, sự thế chấp mới đối kháng được với người đệ tam. Điều thứ 1365 – Một bất động sản không được thế cháp cho nhiều chủ nợ, trừ phi là chủ nợ liên đới, một bất động sản đã để đương rồi cũng không thể được thế chấp. Điều thứ 1366 – Nếu bất động sản được thực sự giao cho chủ nợ chấp hữu, người này được hoàn toàn hưởng dụng bất động sản: được cầy cấy, khai khẩn, hưởng mọi hoa lợi; nhưng phải chịu các thứ thuế và đảm phụ đồng niên về lợi tức, và phải đài thọ mọi sự sửa chữa cần ích. Điều thứ 1367 – Chủ nợ, nếu không ưng chịu những nghĩa vụ trên này, có thể buộc người vay phải lấy lại quyền hưởng dụng bất động sản. Điều thứ 1368 – Chủ nợ thế chấp phải giữ gìn bất động sản, nếu sơ xuất hay lầm lỗi để cho bất động sản giảm giá trị sẽ phải chịu trách nhiệm. Điều thứ 1369 – Chủ nợ thế chấp có thể nhượng quyền thế chấp vô thường hay hữu thường cho người đệ tam, nhưng phải được người vay ưng thuận. Sự nhượng quyền cũng phải lập chứng thư và đăng ký như đã định cho việc thế chấp. Điều thứ 1370 – Tùy theo sự giao ước của hai bên, những hoa lợi do chủ nợ thu hoạch sẽ coi là tiền lãi trong thời kỳ hưởng dụng, hoặc được trừ vào tiền vốn và tiền lời. Nếu không có giao ước rõ ràng, hoa lợi sẽ chỉ coi là tiền lãi. Điều thứ 1371 – Thời hạn của sự thế chấp là thời hạn của nghĩa vụ chính; nếu không có thời hạn được ấn định cho nghĩa vụ này, thời hạn thế chấp sẽ là mười năm. Điều thứ 1372 – Trong mọi trường hợp, và không cứ thời hạn thế chấp là bao nhiêu, chủ nợ thế chấp cũng không vì người vay không trả nợ mà có thể thành sở hữu chủ bất động sản đã thế chấp. Mọi giao ước trái với điều khỏan trên đây đều tuyệt đối vô hiệu. Điều thứ 1373 – Đến hạn đã định, nếu người vay trả nợ, chủ nợ phải hòan lại bất động sản, hay bằng khóan hoặc văn tự tạo mãi: nếu không, tất cả hoa lợi thu hoạch về sau phải hoàn lại cho người vay, chưa kể có thể phải bồi thường. Điều thứ 1374 – Nếu có sự thỏa thuận cho ngườì vay được trả nợ trước hạn định thì kể từ ngày đề cung trả nợ, người vay không còn phải trả lời. Điều thứ 1375 – Nếu quá hạn mà nợ không trả, chủ nợ có quyền không cứ lúc nào, đem cưỡng chế phát mại bất động sản thế chấp. Trong trường hợp này, cũng như trong trường hợp bất động sản bị cưỡng chế phát mại do một chủ nợ khác, ngừơi chủ nợ thế chấp, để thay vào quyền lưu trí không còn nữa, được quyền ưu tiên lấy nợ trước tất cả các chủ nợ khác, kể cả các chủ nợ để đương mà quyền lợi phát sinh và đăng ký sau sự thế chấp. Chủ nợ thế chấp cũng có quyền ưu tiên như trên trong trừơng hợp bất động sản bị truất hữu vì lợi ích công cộng. Điều thứ 1376 – Nếu người vay do sự thỏa thuận giữa hai bên, trả nợ, trứơc khi đến hạn, chủ nợ vẫn được quyền thu hoạch mùa màng chưa gặt hái do người ấy xuất công của làm ra. Điều thứ 1377 – Người chủ nợ không phải hoàn lại những hoa lợi đã thu hoạch sau khi món nợ đáo hạn nếu người vay để quá hạn ấy mới trả nợ. Điều thứ 1378 – Mọi phí tổn về việc thành lập hay hủy bỏ khế ước thế chấp do người vay phải chịu, nếu không có ước định khác. CHƯƠNG THỨ III
Nói về quyền để đươngĐiều thứ 1379 – Quyền để đương là một vật quyền thành lập trên bất động sản được sung dụng để bảo đảm cho sự thi hành một nghĩa vụ. Quyền này bất khả phân chia, nếu đã thành lập trên nhiều bất động sản, sẽ bao trùm toàn thể những bất động sản ấy, cũng như toàn thể mỗi bất động sản và mỗi phần của mỗi bất động sản. Điều thứ 1380 – Chủ nợ để đương có quyền, khi nợ đáo hạn, truy sách bất động sản sung dụng không cứ ở tay người nào, để phát mại mà ưu tiên lấy nợ. Điều thứ 1381 – Bất động sản nào có thể được sử dụng đều có thể đem để đương về quyền tư hữu cũng như về quyền dụng ích hay quyền thuê trường kỳ trong thời gian những quyền ấy. Điều thứ 1382 – Chỉ bất động sản mới có thể để đương. Quyền để đương phải được định rõ về ngân số trái quyền (vốn, lời và phụ thuộc) cũng như về bất động sản hay vật quyền sung dụng cho sự để đương. Điều thứ 1384 – Nếu quyền lợi đem để đương là một quyền lợi có thể bị bãi tiêu hay lệ thuộc vào một điều kiện đình chỉ hoặc một điều kiện tiêu trừ thì mọi nguyên nhân đình chỉ hay tiêu hủy quyền lợi này cũng chi phối luôn cả quyền để đương. Điều thứ 1385 – Quyền để đương thành lập trên một bất động sản bao gồm cả những tu bổ sau này cho bất động sản ấy. Điều thứ 1386 - Một bất động sản có thể đem để đương cho nhiều chủ nợ khác nhau, mỗi người sẽ có thứ bực riêng về quyền ưu tiên lấy nợ tùy theo thứ tự ngày tháng của sự đăng ký, Điều thứ 1387 – Quyền để đương có thể được tương thuận hay bị cưỡng bách. Để đương tương thuận là do sự thỏa thuận của chủ nợ và trái hộ thành lập. Để đương cưỡng bách là do một quyết định tư pháp thành lập, không có sự ưng thuận của trái hộ, trong những trường hợp riêng biệt quy định ở bộ luật này. T I Ế T I
Nói về quyền dể đương tương thuậnĐiều thứ 1388 - Để đương tương thuận chỉ có thể được tạo lập do người có năng cách pháp lý sử dụng bất động sản hay quyền lợi đem để đương. Điều thứ 1389 - Những quyền lợi của người vô năng cách (vị thành niên hay bị cấm quyền) chỉ có thể đem để đương vì những nguyên nhân và theo những thể thức mà quy chế về thân trạng của họ đã định: quyền lợi của ngừơi thất tung muốn đem để đương phải được tòa án cho phép, nếu sự doãn chấp những quyền lợi ấy còn có tính cách tạm thời. Điều thứ 1390 – Sự thành lập quyền để đương phải do một công chính chứng thư, nếu không, sẽ vô hiệu. Trong chứng thư này cả hai đương sự đều phải tuyển định cư sở. Điều thứ 1391 - Sự thành lập quyền để đương chỉ có thể là một điều khoản phụ thuộc vào một khế ước chính để bảo đảm việc trả nợ. Có thể thỏa thuận để đương ngay trong khế ước chính hay trong một văn thư riêng biệt. Điều thứ 1392 – Thời hạn để đương cùng là một với thời hạn của nghĩa vụ chính. Điều thứ 1393 – Sở hữu chủ cũng như người chấp hữu bất động sản hay quyền lợi đã đem để đương mà không phải là trái hộ, có thể trả nợ cho trái chủ để giải tỏa cho bất động sản hay quyền lợi ấy. Trong trường hợp này, người trả nợ sẽ kế vị người chủ nợ và được hưởng tất cả quyền lợi của người này. T I Ế T II
Nói về quyền để đương cưỡng báchĐiều thứ 1394 – Nếu không có để đương tương thuận, quyền để đương cưỡng bách có thể được tòa án ban cấp trong những trường hợp sau đây: 1) Cho người bán một bất động sản, trên bất động sản ấy, để bảo đảm giá bán chưa được trả hay mới trả một phần; 2) Cho người đổi một bất động sản lấy một bất động sản khác, trên bất động sản đánh đổi để bảo đảm số tiền bù mà người cộng phân chưa trả. Điều thứ 1395 – Quyền để đương bách sẽ được ban cấp do một án văn tòa hộ nơi bất động sản tọa lạc, bị đơn phải được gọi ra trước tòa để đối tụng. Án tòa sẽ chỉ định rõ bất động sản nào phải chịu để đương và tới số tiền nào. T I Ế T III
Đăng ký quyền để đươngĐiều thứ 1396 – Quyền để đương muốn đối kháng với người đệ tam, phải được đăng ký vào sổ điền địa để công bố cho người đệ tam được biết; chủ nợ để đương phải khai rõ trong sổ điền địa cư sở tuyển trách của mình. Điều thứ 1397 – Giữa các chủ nợ ngày đăng ký quyền để đương vào sổ điền địa ấn định thứ tự về quyền ưu tiên lấy nợ. Tất cả các chủ nợ đăng ký cùng một ngày đều ở cùng một thứ bậc, không phân biệt sự đăng ký đã làm vào buổi sáng hay buổi chiều. Điều thứ 1398 – Bất động bị tịch biên không thể đem để đương được. T I Ế T IV
Quyền lợi của chủ nợ để đươngĐiều thứ 1399 – Nếu đến hạn không được trả nợ, tất cả chủ nợ để đương, không cứ ở thứ bậc nào, đều có quyền cưỡng chế phát mại bất động sản hay quyền lợi đã để đương. Điều thứ 1400 – Chủ nợ phải chấp hành những bất động sản không được để đương của trái hộ. Điều thứ 1401 – Sự cưỡng chế phát mại sẽ làm theo thể thức quy định do bộ luật dân sự tố tụng. Điều thứ 1402 – Nếu bất động sản hay quyền lợi để đương bị người mắc nợ đem sử dụng sau khi để đương, người đệ tam chấp hữu phải để cho chủ nợ để đương cưỡng chế phát mại, nhưng có thể, để tránh sự truất hữu, trả nợ cho chủ nợ theo điều 1303 trên đây. Điều thứ 1403 – Người chấp hữu có thể bồi thường cho chủ nợ nếu vì sơ xuất, lầm lỗi, đã làm hư hai bất động sản; nhưng cũng được bồi hoàn những chi tiêu tu bổ bất động sản, cho tới mức sự thặng dư giá trị. T I Ế T V
Sự tiêu trừ quyền để đươngĐiều thứ 1404 – Quyền để đương bị tiêu trừ: 1) Do sự tiêu trừ nghĩa vụ chính; 2) Do sự khước từ minh thị của chủ nợ; 3) Do thủ tục thanh tiêu. Điều thứ 1405 – Người mua hay người tặng dữ một bất động sản bị để đương, muốn tránh sự sai áp của chủ nợ, có thể thanh tiêu quyền để đương theo thủ tục dưới đây. Điều thứ 1406 – Sở hữu chủ mới phải tống đạt cho tất cả các chủ nợ ở cư sở tuyển định đã đăng ký, chậm lắm là một tháng sau khi bị chủ nợ đốc thúc: 1) Trích lục văn tự đoạn mại hay tặng dữ trong đó phải ghi ngày tháng văn tự, tên họ, địa chỉ của người chủ bán, chủ tặng và người chủ mua hay người thụ tặng; sau nữa bất động sản phải được chỉ định rỏ ràng cùng với giá bán, hoặc giá trị được ước lượng nếu sự di chuyển là do sự tặng dữ; 2) Trích lục về sự đăng ký văn tự đoạn mại hay tặng dữ; 3) Bản liệt kê các chủ nợ để đương chia ra là ba cột: cột nhất dành cho tên họ trú quán tuyển định của các chủ nợ; cột nhì dành cho ngày tháng thành lập quyền để đương cùng ngày tháng đăng ký; cột ba dành cho số nợ được bảo đảm. Điều thứ 1407 – Đồng thời với sự tống đạt trên đây, người sở hữu chủ mới phải đề nghị trả các món nợ và đảm phụ để đương, bất luận là đã đáo hạn hay chưa đáo hạn, tới mức giá tiền mua hay giá trị được ước lựơng của bất động sản. Điều thứ 1408 – Các chủ nợ có quyền buộc các sở hữu chủ mới phải ký thác số tiền này tại phòng lục sự tòa án nơi bất động sản tọa lạc hay tại quỹ tồn trữ. Điều thứ 1409 – Mọi quyền để đương sẽ được thanh tiêu nếu trong hạn hai tháng, chủ nợ không phản kháng, trừ phi sở hữu chủ mới bị đốc thúc mà không ký thác số tiền đề nghị. Điều thứ 1410 – Nếu có sự thanh tiêu như trên, số tiền ký thác sẽ đem phân chia theo thứ bậc cho các chủ nợ. Điều thứ 1411 – Trong hạn hai tháng nói trên, mặc dầu có chủ nợ khác đã đốc thúc sở hữu chủ mới phải ký thác số tiền đề nghị, mỗi chủ nợ mà quyền để đương đã được đăng ký đều có quyền đòi cưỡng chế phát mại bất động sản nhưng phải: 1) Tống đạt cho chủ mới và cho chủ cũ là người mắc nợ chính việc đòi cưỡng chế phát mại; 2) Ký tên vào bản chính và bản sao giấy tống đạt; 3) Ký quỹ tại phòng lục sự tòa án nơi phát mại số tiền phí tổn về việc phát mại. Tất cả phải đủ nếu không thì vô hiệu và bị coi như không phản kháng Điều thứ 1412 – Bất động sản sẽ đem phát mại với giá đặt là giá bán hay giá ước lượng nói tại điều 1406, 1 / thêm mười phần trăm. Người mua phải chịu hết các phí tổn. Nếu không có ai trả giá, chủ nợ đứng ra xin cưỡng chế phát mại phải chịu hết phí tổn về việc phát mại, và mọi sự trở lại tình trạng cũ như không có việc cưỡng chế phát mại. Điều thứ 1413 – Nếu khi phát mại, vẫn ngừơi thụ tặng hay người đã mua trước của người thiếu nợ lại mua được, những người này không phải đăng ký án văn phát mại. Điều thứ 1414 – Nếu người khác mua được, mọi thứ thuế trước bạ về khế ước đoạn mại hay tặng dữ cho ngừơi chủ cũ, sẽ do công quỹ hoàn lại cho người này. THIÊN THỨ VIINói về những quyền đặc ưu CHƯƠNG THỨ NHẤTTổng tắcĐiều thứ 1415 – Tất cả những tài sản hiện hữu và hậu lai của người mắc nợ, động sản cũng như bất động sản, đều là vật bảo đảm cho chủ nợ. Điều thứ 1416 – Những tài sản ấy là bảo đảm chung cho tất cả các chủ nợ và giá tiền sẽ phân chia cho các chủ nợ theo tỷ lệ trái quyền của mỗi nguời, trừ phi có chủ nợ có quyền đặc ưu. Điều thứ 1417 – Những quyền đặc ưu là những đặc quyền minh định dưới đây, không kể những đặc quyền khác được công nhận trong các đạo luật đặc biệt. Điều thứ 1418 – Quyền đặc ưu hay đặc quyền là quyền do luật pháp công nhận cho một chủ nợ, vì tính chất trái quyền của người này, được lấy nợ trước các chủ nợ khác, kể cả chủ nợ để đương hay thế chấp. Điều thứ 1419 – Giữa các chủ nợ cũng có đặc quyền, quyền ưu tiên của mỗi người để lấy nợ sẽ tùy theo thứ tự pháp định của những đặc quyền ấy. Điều thứ 1420 – Các chủ nợ có đặc quyền cùng thứ bậc được trả tiền theo tỷ lệ trái quyền của mỗi người. Điều thứ 1421 – Đặc quyền có thể được sử hành trên động sản hay trên bất động sản. CHƯƠNG THỨ IIĐặc quyền trên động sảnĐiều thứ 1422 – Những đặc quyền trên động sản có thể là những đặc quyền tổng quát, sử hành trên toàn thể động sản của người trái hộ hay là những đặc quyền biệt định, chỉ sử hành riêng trên một vài động sản nhất định. Điều thứ 1423 – Chủ nợ có đặc quyền biệt định được trả trước chủ nợ có đặc quyền tổng quát trên giá bán các đặc sản. Nhưng tiền án phí có lợi ích chung cho các chủ nợ có đặc quyền bao giờ cũng được trả trước. T I Ế T I
Đặc quyền tổng quátĐiều thứ 1424 –Về những trái quyền dưới đây, chủ nợ được hưởng đặc quyền trên toàn thể động sản của người thiếu nợ theo thứ tự như sau: 1) Tiền án phí; 2) Tiền phí tổn tống táng; 3) Tiền phí tổn chữa bệnh về căn bệnh cuối cùng của người mệnh một; 4) Tiền công của gia nhân về năm qua và tiền công còn thiếu về năm đang làm việc; tiền công trong sáu tháng cuối của tất cả các công nhân, không cứ về dịch vụ gì; tiền bồi thường cho nạn nhân hay ngừơi thụ quyền của nạn nhân về tai nạn lao động; 5) Giá tiền thực phẩm bán cho người mắc nợ và cho gia đình người mắc nợ trong sáu tháng cuối cùng. T I Ế T IIĐặc quyền biệt địnhĐiều thứ 1425 – Những chủ nợ dưới đây được hưởng đặc quyền biệt định: 1) Chủ nhà, đất, ruộng, trại về tiền thuê, địa tô đã đáo hạn; và tiền bồi thường chiếm cứ sau khi khế ước đã mãn hạn, đặc quyền này sử hành trên những mùa màng trong năm và trên tất cả đồ đạc trang trí nhà, trại cho thuê, cùng dụng cụ, súc vật dùng để khai khẩn nông trại. Sở hữu chủ các bất động sản trên có quyền sai áp những đồ đạc trang trí nhà, trại, dẫu rằng những đồ đạc này được di chuyển đi nơi khác không có sự ưng thuận của người ấy. Muốn giữ đặc quyền trên những đồ đạc này và đòi mang trả lại nơi thuê, sở hữu chủ phải khởi tố người thuê và người đệ tam giữ những đồ đạc đã di chuyển trong hạn một tháng kể từ ngày di chuyển; 2) Chủ nợ cầm đồ được đặc quyền trên đồ vật đã cầm cho người ấy; 3) Người nào đã giữ gìn hay sửa chữa để bảo toàn một đồ vật được nguyên vẹn, được đặc quyền trên đồ vật ấy về tiền phí tổn và tiền công; 4) Người bán chịu đò vật, quần áo được đặc quyền trên vật bán nếu những vật ấy còn do người mua giữ, không cứ là người này được hưởng kỳ hạn hay không được hưởng kỳ hạn để trả tiền; Nếu người mua không được hưởng kỳ hạn để trả tiền, người bán còn có thể lấy lại vật bán miễn là vật này còn do người mua giữ và còn nguyên vẹn như lúc bán, nhưng phải xin truy hoàn như vậy trong hạn một tháng kể từ ngày bán. Đặc quyền của người bán đồ vật, quần áo đựoc xếp hạng sau đặc quyền về tiền thuế, địa tô và tiền bồi thường chiếm cứ sở hữu chủ nhà, trại, ruộng, đất cho thuê, trừ phi sở hữu chủ đã biết rằng những đồ vật trang trí không phải của người thuê; 5) Chủ trọ, chủ khách sạn, được đặc quyền về những cung khoản như thức ăn, chỗ ở cùng dịch vụ cho khách hàng: đặc quyền này sử hành trên hành trang của khách hàng đem đến nhà trọ hay khách sạn; 6) Người chuyên chở được đặc quyền trên đồ vật chuyên chở về giá tiền chuyên chở và phí tổn phu thuộc; 7) Nạn nhân một tai nạn, hay những người thụ quyền của nạn nhân, được đặc quyền về tiền bồi thường trên số tiền mà hãng bảo hiểm đã thuận trả hay bị xử phải trả theo khế ước bảo hiểm. Nếu hãng bảo hiểm chưa trả cho nạn nhân mà đã trả cho khách hàng. Sự trả tiền này không có hiệu lực giải nợ cho hãng bảo hiểm đối với nạn nhân. CHƯƠNG THỨ III
Đặc quyền trên bất động sảnĐiều thứ 1426 – Những chủ nợ dưới đây được hưởng đặc quyền trên bất động sản: 1) Người cho vay tiền được hưởng đặc quyền trên bất động sản bằng tiền cho vay, nhưng phải có công chính chứng thư xác nhận rằng tiền vay, để mua bất động sản; và biên lai của người bán nhận rằng đã được trả bằng tiền vay ấy; 2) Các kiến trúc sự, thầu khóan, thợ thuyền xây cất, sửa chữa những công trình kiến trúc được đặc quyền trên những kếin trúc ấy, về tiền công và tiền vật liệu cung cấp, sau khi đã làm xong và giao cho sở hữu chủ tiếp nhận bằng một chứng thư có thị thực chữ ký; nếu vì một lý do gì, các đương sự bỏ dở công việc, đặc quyền trên đây chỉ được hưởng nếu có biên bản của một giám định viên do tòa cử, nhận xét những công việc đã được làm rồi, trị giá những vật liệu, nhân công và việc thù lao cho công việc ấy; 3) Ngườ cho vay tiền để trả công thợ về việc xây cất, được hưởng đặc quyền trên các kiến trúc xây cất về số tiền cho vay nhưng phải có công chứng thư xác nhận rằng tiền vay là để trả kiến trúc sư, thầu khóan hay thợ thuyền và biên lai của những người này nhận tiền. CHƯƠNG THỨ IV
Những đặc quyền chung trên Động sản và bất động sảnĐiều thứ 1427 – Những đặc quyền tổng quát được công nhận ở điều 1424 đượ sử hành cả trên động sản và trên bất động sản, nhưng trên động sản trước đã. Điều thứ 1428 – Nếu vì giá bán động sản không đủ để trả nợ, những chù nợ có đặc quyền tổng quát của điều 1424 phải cạnh tranh lấy nợ với những chủ nợ được đặc quyền trên một bất động sản, những chủ nợ của điều 1421 sẽ được trước những chủ nợ của điều 1426. CHƯƠNG THỨ V
Đăng ký đặc quyềnĐiều thứ 1429 – Đặc quyền trên bất động sản chỉ có hiệu lực nếu đã đăng ký vào sổ điền địa. Điều thứ 1430 – Tuy nhiên, những đặc quyền theo điều 1424 không cần phải đăng ký. Điều thứ 1431 – Những chủ nợ được đặc quyền theo điều 1426 muốn xin đăng ký phải xuất trình những chứng thư đã nói trong điều ấy: 1) Người cho vay để mua bất động sản văn tự cho vay và biên lai của người bán bất động sản; 2) Kiến trúc sư, thầu khóan, thợ thuyền: chứng thư của sở hữu chủ tiếp nhận kiến trúc đã xây cất hoặc biên bản của giám định viên; 3) Người cho vay để trả công thợ xây cất bất động sản: văn kiện cho vay và biên lai của kiến trúc sư, thầu khóan hay thợ thuyền. Điều thứ 1432 – Viên chức giữ sổ điều địa sẽ ghi rằng đương sự xin đăng ký đặc quyền của họ quy chiếu điều 1426, và lược biên những chứng từ xuất trình vào sổ. Điều thứ 1433 – Sự đăng ký phải làm trong hạn một tháng. 1) Trong trường hợp thứ nhất điều 1431 trên đây kể từ ngày người bán nhà đã cấp biên lai cho người mua; 2) Trong trường hợp thứ hai, kể từ ngày sở hữu chủ cấp chứng thư chấp nhận đã xây cất kiến trúc hay từ ngày giám định viên đã báo cho đương sự biết việc đệ nạp phúc trình; 3) Trong trường hợp thứ ba, kể từ ngày kiến trúc sư, thầu khóan hay thợ thuyền cấp biên lai về tiền công được trả. Quá hạn nói trên nếu không đăng ký đặc quyền không còn nữa. Tuy nhiên, sự đăng ký quá hạn vẫn có thể được chấp nhận, nhưng chủ nợ chỉ có quyền để đương kể từ ngày đăng ký.
|