Home Đời Sống Pháp Luật BỘ LUẬT DÂN SỰ VÀ THƯƠNG SỰ TỐ TỤNG - VNCH - Thiên 3 & 4

BỘ LUẬT DÂN SỰ VÀ THƯƠNG SỰ TỐ TỤNG - VNCH - Thiên 3 & 4 PDF Print E-mail
Tác Giả: Việt Nam Cộng Hòa   
Thứ Sáu, 06 Tháng 11 Năm 2009 06:04

 

 

THIÊN THỨ III

KHÁNG CÁO VÀ THỦ TỤC TRƯỚC TÒA
SƠ THẨM VÀ TÒA THƯỢNG THẨM

Điều thứ 250 – Thời hạn kháng cáo án văn đối tịch là ba mươi ngày:

1) Kể từ ngày tuyên án đối với đương sự có mặt lúc tuyên án;
2) Kể từ ngày tống đạt cáo tri án văn chiếu theo điều 232, 233, 234 và 235 của bộ luật này, đối với đương sự vắng mặt lúc tuyên án.

Điều thứ 251 – Thời hạn kháng cáo án văn khuyết tịch là sáu mươi ngày kể từ ngày án văn này không còn kháng tố được nữa.

Đương sự bị kết án khuyết tịch có quyền kháng cáo trong vòng thời hạn kháng tố và trong trường hợp này, đương sự được xem như đã khước từ quyền kháng tố.

Điều thứ 252 – Các thời hạn trên đây chỉ có thể bị đình chỉ do sự từ trần của người bị kết án. Thừa kế của người này sẽ được một thời hạn mới là sáu mươi ngày kể từ ngày người được kiện cáo tri án văn cho họ, để kháng cáo.

Sự cáo tri cho một thừa kế sẽ có hiệu lực đối với tất cả.

Điều thứ 253 – Sự kháng cáo sẽ thực hiện theo thể thức dự liệu nơi điều 245 về sự kháng tố.

Đương sự kháng cáo phải đóng một số tiền dự phạt một ngàn (1.000$)

Điều thứ 254 – Bị kháng có thể kháng cáo phụ đới chống lại nguyên kháng chẳng những về các khoản làm mục tiêu cho đơn kháng cáo chánh, mà luôn cả về các khoản khác của án văn.

Sự kháng cáo phụ đới không phải làm theo hình thức đặc biệt nào và có thể thực hiện trong mọi giai đoạn của thủ tục cho đến khi tòa nghị án.

Điều thứ 255 – Hồ sơ kháng cáo phải chuyển đến tòa thượng thẩm trong các thời hạn tối đa sau đây kể từ ngày kháng cáo:

- Một tháng cho những vụ cấp thẩm;
- Ba tháng cho những vụ khác.
Nếu để quá kỳ hạn, lục sự có thể bị phạt vạ dân sự một ngàn đồng (1.000$) bằng án lệnh của chánh án tòa đã xử kiện, trừ phi lục sự chứng minh được duyên cớ cản trở chính đáng.

 Trong trường hợp bản án bị kháng cáo chưa được trước bạ vì đương tụng không nạp đủ tiền dự phí, lục sự sẽ làm trích lục thay vì bản toàn sao để hoàn thành hồ sơ chuyển lên Tòa Thượng Thẩm.

 Điều thứ 256 – Trong vòng tám ngày, sau khi nhận hồ sơ, lục sự tòa Thượng thẩm sẽ xuất trát đòi các đương sự đến trước tòa.

 Trát đòi sẽ ghi rõ tên họ, nghề nghiệp, cư sở thực sự hay tuyển định hay nơi trú ngụ của đương sự, số đăng đường, lý do đòi đến là để nghe xử về sự kháng cáo, ngày giờ của phiên xử.

 Trong trường hợp có sự khẩn cấp, và nếu được chánh nhứt tòa thượng thẩm cho phép bằng án lệnh, đương sự mẫn cán có thể đòi các đương sự khác bằng triệu hoán trạng ra phiên xử được ấn định trong án lệnh.

 Trát đòi của phòng lục sự hay triệu hoán trạng sẽ được tống đạt theo thể thức dự liệu nơi các điều từ 33 đến 39 của bộ Luật này.

 Điều thứ 257 – Có thể bị kháng cáo những án văn mà tòa chỉ có thẩm quyền xử sơ thẩm đã định danh lầm là án chung thẩm.

 Sự chấp hành của án văn trên đây có thể bị đình chỉ do một quyết định của tòa Thượng thẩm, theo thủ tục triệu hoán ngắn hạn.

 Điều thứ 258 – Sẽ bất khả chấp thẩm sự kháng cáo đối với các án văn tuyên xử trong những vụ kiện thuộc quyền chung thẩm của tòa sơ thẩm nhưng không được tòa này định danh, hay tòa này đã định danh sai lầm là án sơ thẩm.

 Trong trường hợp nói ở điều 255 đoạn chót. Vì là nguyên kháng không chịu nạp tiền trước bạ bản án bị kháng cáo mà trong hồ sơ kháng cáo chỉ có bản trích lục án văn thay vì bản toàn sao, Tòa Thượng thẩm, ngay phiên xử đầu tiên sẽ ra lệnh cho tòa lục sự cáo tri cho đương tụng biết trong thời hạn một tháng phải nạp tiền dự phí để trước bạ bản án, Tòa Thượng thẩm sẽ tuyên bố sự kháng cáo bất khả chấp thẩm.

 Điều thứ 259 – Nếu có sự vô thẩm quyền đối vật, đơn kháng cáo sẽ được chấp nhận trong mọi trường hợp, dẫu rằng vụ kiện không quá giá ngạch chung thẩm.

 Điều thứ 260 – Sự kháng cáo, nếu thực hiện không có dự phòng nào, sẽ đặt lại trước tòa thượng thẩm tất cả sự tranh chấp, cũng như khi vụ kiện được đưa ra xét xử trước tòa sơ thẩm.

 Điều thứ 261 – Sự kháng cáo chỉ có hiệu lực đối với:

1) Những đương sự kháng cáo;
2) Những đồng hội viên, đồng thừa kế, đồng phụ trái liên đới;
3) Những người bị tòa thượng thẩm đòi dự sự.

Đối với các đương sự khác, án văn sơ thẩm được xem như có uy lực quyết tụng.

Điều thứ 262 – Sự kháng cáo có hiệu lực đình chỉ sự chấp hành án văn nếu án này không được tòa cho thi hành tạm.

Điều thứ 263 – Nếu tòa sơ thẩm đã truyền thi hành tạm án văn ngoài những trường hợp điều kiện luật định, đương sự kháng cáo có thể xin tòa thượng thẩm truyền đình chỉ sự thi hành tạm theo thủ tục triệu hoán ngắn hạn.

Điều thứ 264 – Trước tòa thượng thẩm, các đương sự không thể đưa ra những thỉnh cầu mới, ngoại trừ trường hợp thỉnh cầu mới là đơn xin bù trừ hay nhằm mục đích chống lại thỉnh cầu chánh.

Các đương sự cũng có thể xin tòa thượng thẩm dạy trả tiền thuê mướn, tiền lời, tiền phải trả từng kỳ hạn, hay phụ khoản nào khác, đã đáo hạn kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, hoặc tiền bồi thường sự thiệt hại phát sinh kể từ ngày này.

Không kể như thỉnh cầu mới các thỉnh cầu bắt nguồn trực tiếp từ thỉnh cầu nguyên thủy, và cùng mục đích, mặc dầu căn cứ vào những nguyên nhân hay lý do khác.

Điều thứ 265 – Các đương sự có thể xin mở cuộc điều tra lần đầu tiên trước tòa thượng thẩm. Tuy nhiên, đối với các đơn xin điều tra bổ túc, thỉnh cầu sẽ bị bác nếu chỉ nhằm vào những sự kiện mà đương sự đã hay biết nhưng không nại ra khi xin mở cuộc điều tra thứ nhất.

Điều thứ 266 – Không thể bị chỉ trích trước tòa thượng thẩm chữ ký hay chữ viết mà đương sự không phủ nhận trước tòa sơ thẩm trong một cuộc tranh luận đối tịch.

Điều thứ 267 – Án sơ thẩm có thể bị cải sửa hay bác bỏ do sự xuất trình những tài liệu mới, nhưng đương sự xuất trình trễ nải có thể bị xử phải gánh chịu tất cả hay một phần án phí, chưa kể tiền bồi thường thiệt hại, nếu có.

Điều thứ 268 – Không đương sự nào có thể kháng cáo chánh hay kháng cáo phụ đới những án văn mà mình đã thuận tuân.

Điều thứ 269 – Sự thuận tuân không thể được suy đoán, nhưng có thể minh thị hay mặc thị.
Sự thuận tuân minh thị phải được chứng minh bằng văn thư.

Sự thuận tuân mặc thị có thể được xác định bởi việc tự ý thi hành toàn thể hay một phần án văn, hoặc bởi bất cứ hành động nào trái với ý định kháng án bằng một trong những phương sách dự liệu trong bộ luật này.

Điều thứ 270 – Có thể dự sự trước tòa thượng thẩm những người có quyền đệ tam kháng tố án văn bị kháng cáo hay án văn mà tòa thượng thẩm sẽ tuyên.

Tòa thượng thẩm có thể hoặc theo thỉnh cầu của các đương sự, hoặc tự ý đòi dự sự những người nói trên.

Điều thứ 271 – Trong trường hợp một án văn sơ thẩm xử chung cuộc vụ kiện bị hủy bỏ vì có sự bất hợp lệ về hình thức hoặc vì bất cứ lý do nào khác, tòa thượng thẩm có thể di thẩm vụ tranh chấp, nếu xét vụ kiện đã hoàn bị.

Điều thứ 272 – Điều 179 và 180 của bộ luật này về sự thất hiệu sẽ được áp dụng trước tòa thượng thẩm.

Sự thất hiệu sẽ làm cho án văn sơ thẩm bị kháng cáo có uy lực quyết tụng.

Điều thứ 273 – Tất cả những điều khoản của bộ luật này về thủ tục trước tòa cấp sơ thẩm đều sẽ được áp dụng trước tòa thượng thẩm, ngoại trừ những điều khoản trái với tổ chức và sự điều hành của tòa sau này.

Điều thứ 274 – trong trường hợp sự kháng cáo chánh bị bác toàn vẹn, tòa thượng thẩm sẽ truyền tịch thâu số tiền dự phạt nói ở điều 253 trên đây; ngoài ra, nếu sự kháng cáo có tánh cách diên trì hay quá lạm, tòa thượng thẩm còn có thể tuyên phạt nguyên kháng một số tiền vạ dân sự không quá năm ngàn đồng (5.000$)  chưa kể tiền bồi thường thiệt hại cho đối phương, nếu có.

Tiền vạ dân sự sẽ do sở trước bạ truy thâu riêng biệt đối với nguyên kháng bị phạt, ngoài thuế trước bạ bản án.

Các đương sự khác không thể bị buộc phải trả tiền vạ này và có quyền xin cấp bản đại tự hoặc bản toàn sao án văn mặc dầu người bị phạt chưa đóng đủ.

Điều thứ 275 – Các tòa sơ thẩm xử kháng cáo sẽ áp dụng những điều khoản về việc kháng cáo dự liệu trong thiên này, trừ phi luật định khác.

THIÊN THỨ IV

CÁC PHƯƠNG SÁCH KHÁNG ÁN BẤT THƯỜNG


CHƯƠNG THỨ NHẤT

ĐỆ TAM KHÁNG TỔ

Điều thứ 276 – Bất cứ người nào cũng có quyền đệ tam kháng tố một án văn làm thương tổn đến quyền lợi của mình, nếu chính mình hoặc người thay mặt không được gọi ra với tư cách là đương sự trong vụ tố tụng được giải quyết do án văn đó.

Điều thứ 277 – Đơn đệ tam kháng tố sẽ được xét xử do tòa đã tuyên án văn bị chỉ trích.

Điều thứ 278 – Sự đệ tam kháng tố sẽ được thực hiện theo những thể thức quy định trong bộ luật này do việc khởi tố.

Người đệ tam kháng tố phải đóng một số tiền dự phạt một ngàn đồng (1.000$).

Điều thứ 279 – Tòa án thụ lý đơn đệ tam kháng tố có thể, bằng một bản án riêng biệt, truyền đình chỉ sự thi hành toàn thể hay một phần án văn bị chỉ trích, mặc dầu án này đã có uy lực quyết tụng.

Điều thứ 280 – Trong trường hợp xét đơn đệ tam kháng tố hợp lý, tòa sẽ truyền hủy bỏ những khoản án văn làm thiệt hại đến quyền lợi của người đệ tam kháng tố.

Án văn bị đệ tam kháng tố vẫn giữ hiệu lực đối với các đương sự khác trong án văn ấy.

Điều thứ 281 – Trong trường hợp bác đơn, tòa sẽ truyền tịch thâu tieenfdwj phạt, chưa kể người đệ tam kháng tố còn có thể bị xử trả tiền bồi thường thiệt hại cho đối phương.

CHƯƠNG THỨ II

THÂU HỒI NGUYÊN ÁN

Điều thứ 282 – Các án văn đương tịch chung thẩm của tòa cấp sơ thẩm hoặc tòa thượng thẩm, và các án văn khuyết tịch chung thẩm không còn kháng tố được nữa, đều có thể bị thâu hồi theo lời yêu cầu của đương sự vì một trong các lý do sau đây:

1) Nếu có sự gian trá của một đương sự;
2) Nếu tòa đã căn cứ để xét xử vào những văn kiện được nhìn nhận hay bị tuyên bố là giả mạo sau ngày tuyên án;
3) Nếu tìm ra được sau ngày tuyên án, những văn kiện quyết định cho việc xét xử và đã bị nhận giữ lại do lỗi của đương sự;
4) Nếu có sự mâu thuẫn giữa các khoản trong chủ văn của một bản án;
5) Nếu có sự mâu thuẫn giữa các án văn chung thẩm do một tòa cấp sơ thẩm hay thượng thẩm tuyên xử giữa cùng các đương sự về cùng nguyên do và cùng đối tượng.

Điều thứ 283 – Quốc gia, đô thành, thị xã, tỉnh, xã, các cục sở công lập, cùng trẻ vị thành niên đều có thể xin thâu hồi nguyên án nếu không được thay mặt hợp lệ hoặc không được bào chữa đúng đắn.

Điều thứ 284 – Nếu chỉ có lý do để xin thâu hồi nguyên án về một khoản của án văn mà thôi, riêng khoản này sẽ bị thâu hồi khừ khi các khoản khác lệ thuộc vào khoản bị chỉ trích.

Điều thứ 285 – thời hạn xin thâu hồi nguyên án là sáu mươi ngày kể từ ngày nhận được tống đạt án văn bị chỉ trích.

Đối với trẻ vị thành niên, thời hạn bắt đầu kể từ ngày nhận được tống đạt án văn sau khi thành niên.

Điều thứ 286 – Nếu đương sự có quyền xin thâu hồi nguyên án từ trần, trong vòng thời hạn ấn định trên đây, các người thừa kế có một thời hạn mới để xin thâu hồi nguyên án là sáu mươi ngày kể từ ngày nhận được tống đạt án văn nơi cư ngụ của họ.

Sự tống đạt cho một thừa kế sẽ có giá trị đối với tất cả.

Đơn xin thâu hồi nguyên án của một trong các thừa kế sẽ lợi ích cho toàn thể đồng thừa kế.

Điều thứ 287 – nếu đơn xin thâu hồi nguyên án căn cứ vào lý do có sự gian trá, có sự giả mạo, hoặc chận giữ văn kiện, thời hạn chỉ bắt đầu kể từ ngày phát giác sự gian trá hay giả mạo, hoặc từ ngày tìm được văn kiện bị chận giữ.

Điều thứ 288 – Trong trường hợp có sự mâu thuẫn giữa các án văn, thời hạn sẽ bắt đầu kể từ ngày tống đạt án văn sau cùng.

Điều thứ 289 – Đơn xin thâu hồi nguyên án sẽ được xét xử do tòa đã tuyên án văn bị chỉ trích.

Các thẩm phán đã tuyên xử án văn này có thể xét đơn xin thâu hồi nguyên án.

Điều thứ 290 – Đơn xin thâu hồi nguyên án chống một án văn được xuất trình trong một vụ kiện đương cứu trước một tòa án khác với tòa đã tuyên án văn đó vẫn phải đưa ra xét xử trước tòa án mà thẩm quyền đã được ấn định nơi điều 289.

Tòa án đương cứu vụ tranh tụng có thể tùy trường hợp, hoặc tiếp tục xét xử, hoặc đình chỉ để chờ kết quả vụ xin thâu hồi nguyên án.

Điều thứ 291 – Đơn xin thâu hồi nguyên án sẽ được làm theo những thể thức quy định trong bộ luật này cho việc khởi tố.

Ngoại trừ những pháp nhân nói trong điều 283, đương sự xin thâu hồi nguyên án phải đóng một số tiền dự phạt một ngàn đồng (1.000$).

Điều thứ 292 – Đương sự xin thâu hồi nguyên án phải kèm theo đơn một bản ý kiến tán thành của ba luật sư có trên mười năm thâm niên, trong đó có chỉ rõ lý do thâu hồi nguyên án có thể viện dẫn; các vị luật sư này phải được thông tri toàn thể hồ sơ vụ xin thâu hồi nguyên án.

Điều thứ 293 – Đơn xin thâu hồi nguyên án không có hậu quả đình chỉ việc thi hành án văn bị chỉ trích.

Điều thứ 294 – Tòa án thụ lý không thể xét đến những lý do thâu hồi không được nêu lên trong bản ý kiến quy định nơi điều 292.

Điều thứ 295 – Nếu xét thấy cần, tòa có thể truyền cho phòng lục sự nộp vào hồ sơ vụ xin thâu hồi nguyên án hồ sơ vụ kiện được giải quyết do án văn bị chỉ trích.

Điều thứ 296 – Thủ tục thông thường về sự thẩm cứu và xét xử được quy định trong bộ luật này sẽ áp dụng cho việc xét đơn xin thâu hồi nguyên án.

Điều thứ 297 – Tòa án thụ lý đơn xin thâu hồi nguyên án sẽ quyết định luôn về hình thức và nội dung bằng một án văn duy nhất.

Trong trường hợp đơn xin thâu hồi nguyên án được chấp nhận, tòa sẽ truyền thâu hồi án văn bị chỉ trích và hoàn lại tiền dự phạt ấn định nơi điều 291 nếu nội dung vụ tranh tụng không bị xét xử lại. Các đương sự được đặt vào tình trạng cũ trước ngày tuyên án văn bị thâu hồi và những số tiền cùng tài vật đã giao vì sự chấp hành án văn này phải được trả lại.

Trong trường hợp chấp đơn xin thâu hồi nguyên án vì lý do có sự mâu thuẫn giữa hai án văn, tòa sẽ truyền cho thi hành án văn không bị thâu hồi.

Trong trường hợp chấp nhận đơn xin thâu hồi nguyên án vì lý do liên quan đến nội dung vụ tranh tụng, tòa sẽ truyền thâu hồi án văn bị chỉ trích và xét xử lại về nội dung các điểm đã được nêu ra.

Điều thứ 298 – Nếu bác đơn, tòa sẽ truyền tịch thâu tiền dự phạt, chưa kể đương sự xin thâu hồi nguyên án còn có thể bị xử trả tiền bồi thường thiệt hại cho đối phương.

Điều thứ 299 – Một đương sự không thể xin thâu hồi nguyên án hai lần đối với một án văn, không kể lần đầu đơn bị bác hay được chuẩn chấp và mặc dầu lần sau đương sự ấy căn cứ vào một lý do khác; cũng không thể xin thâu hồi nguyên án đối với án văn bác khước hay án văn chuẩn chấp đơn xin thâu hồi thứ nhất.

Điều thứ 300 – Ngoại trừ sự kháng cáo, các phương sách kháng án khác đều được áp dụng đối với án văn xét xử đơn xin thâu hồi nguyên án.

Điều thứ 301 – Các án văn chung thẩm đều có thể bị thượng tố trước tối cao pháp viện vì một trong các lý do sau đây:

1) Vô thẩm quyền hay lạm quyền;
2) Vi luật hay áp dụng luật một cách sai lầm;
3) Có sự vi phạm trong các hành vi tố tụng hay trong án văn, những thể thức mà luật pháp đã dự liệu và ấn định rằng nếu không tuân theo sẽ bị vô hiệu;
4) Có sự mâu thuẫn giữa hai án văn do hai tòa án khác nhau cùng xét về một công việc.
Điều thứ 302 – Thời hạn thượng tố là ba mươi ngày:
1) Kể từ ngày tống đạt cáo tri án văn chiếu theo điều 232, 233, 234, 235 của Bộ luật này, nếu là án văn xử đương tịch;
2) Kể từ ngày không còn kháng tố được nữa nếu là án văn xử khuyết tịch.

Điều thứ 303 – Sự thượng tố sẽ thực hiện dưới hình thức một lời khai của đương sự hay người có ủy quyền đặc biệt, tại phòng lục sự của tòa đã tuyên án văn. Lục sự sẽ lập biên bản lời khai thượng tố trong một quyển sổ dùng riêng cho việc này và ký tên với đương sự.

Người này phải đóng một số tiền dư phạt một ngàn đồng (1000$).

Điều thứ 304 – Trừ phi luật định khác, đơn xin thượng tố không có hậu quả đình chỉ sự thi hành án văn bị chỉ trích.

Điều thứ 305 – Trong vòng một tháng sau khi nhận sự kháng tố, lục sự phải thông báo cho các đương sự khác biết bằng thơ bảo đảm có hồi báo. Ngày gởi thơ nói trên phải được ghi chú vào bên lề biên bản thượng tố.

Lục sự không thi hành đúng qui điều này có thể bị tối cao pháp viện xử phạt tiền vạ dân sự một ngàn đồng (1.000$).

Điều thứ 306 – Trong vòng ba tháng sau khi nhận sự thượng tố, lục sự phải chuyển đến tối cao pháp viện toàn thể hồ sơ vụ kiện có kem theo bản sao án văn bị thượng tố, bản sao thơ thông báo, giấy hồi báo cùng biện minh trạng của nguyên thượng tố nếu có.

Điều thứ 307 – Lục sự ban phá án Tối cao pháp viện phải ghi vào sổ ngày nhận được hồ sơ. Trong vòng mười lăm (15) ngày sau, lục sự phải gởi cho nguyên thượng tố một thơ bào đảm có hồi báo, yêu cầu nạp, trong hạn ba tháng, một biện minh trạng có ghi rõ lý do xin phá án; thơ này phải cho đương sự hay rằng quá hạn. Tối cao pháp viện có thể đem vụ kiện ra xét xử.

Điều thứ 308 – Lục sự ban phá án tối cao pháp viện sẽ gởi cho các đương sự khác, hoặc luật sư của họ một thơ bảo đảm có hồi báo kèm theo bản sao biện minh trạng của nguyên thượng tố, yêu cầu họ nạp trong vòng hai tháng một biện minh trạng trả lời.

Đương sự phải kèm theo biện minh trạng một số bản sao đủ để thông tri cho các đương sự khác.

Điều thứ 309 – Chậm nhứt là mười hai (12) tháng, sau khi tố cao pháp viện nhận được hồ sơ thượng tố, chánh thẩm phòng hộ sẽ chỉ định một hội thẩm làm thuyết trình.

Kể từ ngày bản thuyết trình được nạp vào hồ sơ, các biện minh trạng sẽ không được chấp nhận nữa.

Điều thứ 310 – Trong vòng một tháng sau khi được thông tri hồ sơ và bản thuyết trình, chưởng lý tối cao pháp viện sẽ nạp kết luận.

Quá thời hạn trên đây, chánh thẩm phòng hộ sẽ cho đăng đường vụ kiện và phiên xử sẽ được lục sự thông báo cho các đương sự.

Điều thứ 311 – Tối cao pháp viện, để xét xử, sẽ căn cứ vào hồ sơ, biện minh trạng của các đương sự, bản thuyết trình của hội thẩm và kết luận của công tố viện.

Điều thứ 312 – Tối cao pháp viện chi xử về pháp lý mà không xét đến các sự kiện.

Điều thứ 313 – Nếu chấp nhận đơn thượng tố, tối cao pháp viện sẽ truyền hoàn tiền dự phạt và di giao cho một tòa khác cùng loại, cùng cấp bực, và cùng tánh chất với tòa nguyên thẩm để xét xử lại. Đối với án văn của một tòa thượng thẩm, Tối cao pháp viện có thể di giao cho Tòa thượng thẩm ấy xử lại, nhưng với thành phần khác. Tuy nhiên, Tối cao pháp viện sẽ không truyền di giao trong trường hợp sự tiêu hủy án văn làm cho không còn gì để xét xử nữa.

Điều thứ 314 – Nếu tòa án được  di giao giữ y quan điểm pháp lý của tòa án đã xử đầu tiên, và nếu có thượng tố nữa. Ban phá án tối cao pháp viện sẽ xử với tất cả các phòng hợp lại, và tòa án thứ nhì được di giao bắt buộc phải theo quan điểm sau cùng của tối cao pháp viện.

Điều thứ 315 – Nếu bác đơn, Tối cao pháp viện sẽ truyền tịch thâu tiền dự phạt thượng tố, chưa kể nguyên thượng tố còn có thể bị xử trả cho đối phương một số tiền thiệt hại bằng năm lần số tiền dự phạt nói trên.

Điều thứ 316 – Mặc dù không có nạp biện minh trạng, đương sự không thể kháng tố án văn của Tối cao pháp viện.

Điều thứ 317 – Các thời hạn ấn định nơi các điều 305, 306, 307, 308 và 310 đều sẽ giảm đi phân nửa đối với các vụ cấp thẩm cùng các vụ liên quan đến ly hôn, ly thân, cấp dưỡng, tai nạn lao động, quốc gia nghĩa tử.

Điều thứ 318 – Nếu được biết có một án văn chung thẩm tuyên xử trái với luật pháp hoặc trái với thể thức tố tụng mà các đương sự không xin thượng tố, chưởng lý tối cao pháp viện có thể thượng tố án văn ấy, sau khi thời hạn thượng tố danh cho các đương sự đã mãn.

Các đương sự không được thông báo sự thượng tố này cũng không có quyền xin dự sự, vì họ được xem như đã chấp nhận án văn.

Điều thứ 319 – Nếu tối cao pháp viện tiêu hủy án văn bị chỉ trích, các đương sự không thể căn cứ vào sự kiện này để tránh sự thi hành án văn.

Điều thứ 320 – Tổng trưởng tư pháp có thể bị chỉ thị cho chưởng lý Tối cao pháp viện đưa ra tòa này để xin tiêu hủy, những án văn hoặc hành vi  tư pháp hay hành vi điều hành nội bộ tư pháp có tánh cách lạm quyền.

Các đương sự sẽ được đòi dự sự và có quyền nạp biện minh trạng trong thời hạn do chưởng lý Tối cao pháp viện ấn định.

Điều thứ 321 – Nếu tối cao pháp viện tiêu hủy án văn hoặc hành vi bị chỉ trích, quyết định này có giá trị đối với tất cả mọi người.

CHƯƠNG THỨ IV

KHIẾU TỐ THẨM PHÁN

Điều thứ 322 – Thẩm phán có thể bị khiếu tố vì những duyên cơ sau đây:

1. Nếu bị chỉ trích là đã có hành vi gian trá, gian lận, phù lạm hay đã cố tình phạm lỗi nặng nề nghề nghiệp trong khi thẩm cứu hoặc xét  xử vụ kiện;
2. Nếu không chịu xử;
3. Nếu luật định rõ rằng thẩm phán chịu trách nhiệm sẽ phải bồi thường thiệt hại;
4. Nếu là trường hợp khiếu tố thẩm phán được luật dự liệu.
Quốc gia phải chịu trách nhiệm dân sự về tiền bồi thường thiệt hại mà thẩm phán bị xử trả, nhưng có quyền đòi bồi hoàn đối với thẩm phán này.

Điều thứ 323 – Thẩm phán sẽ được xem như không chịu xử nếu không quyết định về đơn xin án lệnh, hoặc từ chối xét xử hay cố ý đình hoãn một vụ kiện đã hoàn bị và phải được giải quyêt.

Điều thứ 324 – Sự kiện không được xử sẽ được chứng minh bằng hai tờ đốc thúc liên tiếp, cách nhau ít nhất tám (8) ngày, gởi đến thẩm phán và tống đạt tại phòng lục sự.

 Thừa phát lại được triệu dụng làm tờ đốc thúc mà từ chối sẽ bị huyền chức.

Điều thứ 325 – Đơn khiếu tố chống một hay nhiều thẩm phán thuộc các tòa cấp sơ thẩm, hoặc chống một thẩm phán thuộc thành phần Tòa Thượng Thẩm, sẽ do Tòa Thượng Thẩm xét xử.

 Đơn khiếu tố chống Chánh nhứt hay Chưởng-lý tòa Thượng thẩm, hoặc chống trọn thành phần một phòng của tòa thượng thẩm, sẽ thuộc thẩm quyền Tối-cao Pháp viện.
 
Điều thứ 326 – Đơn sự nào muốn khiếu tố thẩm phán phải được chánh-nhứt Tòa Thượng-Thẩm cho phép trước, bằng một án lệnh phê đơn. Chánh nhứt sẽ quyết định sau khi hỏi ý kiến của chưởng lý.

Nếu không cho phép, Chánh nhứt cũng phải tuyên án lệnh có viện dẫn lý do. Trong trường hợp này, đương sự có quyền thỉnh cầu tối cao Pháp-viện xét định lại và tòa này sẽ xử theo thủ tục thông thường, sau khi nghe lời trình bày của đương sự và kết luận của công tố viện.
Phúc quyết của Tối cao pháp viện chỉ viện dẫn lý do khi nào không cho phép khiếu tố.

Đương sự bị bác đơn sẽ bị phạt một số tiền vạ dân-sự từ năm ngàn đồng (5.000$) đến năm mươi ngàn đồng (50.000$).

Điều thứ 327 – Sau khi được phép của chánh nhứt, người xin khiếu tố phải nạp tại phòng lục-sự đơn có nêu rõ lý do, có chữ kỹ của mình hay người đại diện theo ủy quyền đặc biệt bằng công chính chứng thư; ủy quyền này sẽ đính theo đơn.

Trong trường hợp không được dùng lời lẽ có tính cách lăng mạ, nếu vi pham sự cấm chỉ này, đương sự sẽ bị phạt tiền vạ đương sự từ năm ngàn đồng (5.000$) đến năm mươi ngàn đồng (50.000$) và luật sư thảo đơn sẽ bị trừng phạt về kỷ luật.

Điều thứ 328 – Thẩm phán bị chỉ trích không được tham dự vào việc xét xử đơn khiếu tố.

Cho đến khi vụ khiếu tố được giải quyết, thẩm phán này cũng không được xét xử các vụ kiện mà đương sự xin khiếu tố, hoặc thân thuộc trực hệ hay phối-ngẫu của đương sự có thể có trước tòa án nơi thẩm phán đang hành nhiệm, nếu không các án văn sẽ vô hiệu.

Điều thứ 329 – Trong vong ba ngày sau khi nhận đơn và hồ sơ, chánh lục sự phải trình cho Chánh-nhứt. Vị này sẽ yêu cầu thẩm phán bị chỉ trích đến tham khảo hồ sơ và nạp phúc trình giải thích.

Sau đó, Chánh-nhứt sẽ ấn định ngày xử, chỉ định một hội thẩm làm phúc trình và thông tri hồ sơ cho chưởng-lý để nạp kết luận trạng.

Đương sự xin khiếu tố có quyền xem hồ sơ và nạp lý đoán.

Vụ kiện sẽ được xét xử và tuyên án tại phòng thẩm nghị.

Điều thứ 330 – Nguyên đơn bị bác đơn khiếu tố thẩm phán sẽ bị phạt một số tiền vạ dân sự từ năm ngàn đồng (5.000$) đến năm mươi ngàn đồng (50.000$), chưa kể quyền đòi bồi thường thiệt hại của thẩm phán bị khiếu tố và của đương sự khác, nếu có.

MỤC LỤC   *   THIÊN 5 & 6