Tân GM Nguyễn Thái Hợp: đã đến lúc nên thẳng thắn phê bình và đóng góp ý kiến với Nhà nước |
Tác Giả: WHD | |||||
Thứ Tư, 30 Tháng 6 Năm 2010 08:07 | |||||
Thiết tưởng cũng đã đến lúc nên thẳng thắn phê bình và đóng góp ý kiến với Nhà nước về những gì bất ổn hay chưa hoàn thiện, nhất là những gì liên hệ đến nhân phẩm và nhân quyền 29/06/10 WHĐ: Trang WHĐ vui mừng được tin Tòa Thánh đã chỉ định thêm cho Giáo Hội Việt Nam một giám mục mới và Đức cha là người đã được Tòa Thánh chọn để giữ chức vụ này. Xin Đức cha cho biết qua tiến trình bổ nhiệm và xin chia sẻ vài cảm nhận ban đầu về sứ vụ Giám mục. GIÁM MỤC NGUYỄN THÁI HỢP (Gm NTH): Không biết phải trả lời như thế nào đây để vừa theo sát câu hỏi vừa diễn tả được sự phức tạp của tiến trình bổ nhiệm giám mục trong bối cảnh Việt Nam hôm nay! Tôi mạn phép nhìn vấn đề dưới mấy góc độ sau đây: 1)- Theo giáo luật hiện hành, việc bổ nhiệm giám mục được thực hiện theo tiến trình thông thường sau đây: Khi có nhu cầu, vị Hồng y hoặc Giám mục giáo phận sẽ gửi lên Tòa Thánh Vatican một danh sách gồm ba ứng viên được coi là xứng đáng nhất để đảm nhận chức vụ này. Các cơ quan hữu trách của Tòa Thánh sẽ sử dụng nhiều nguồn thông tin khác nhau để thẩm định về mỗi ứng viên. Tất cả tiến trình tham khảo và “điều tra” này hoàn toàn được bảo mật. Nếu không chấp nhận cả ba ứng viên được đề cử này thì Tòa Thánh sẽ trả hồ sơ về cho giáo phận. Nếu tìm được ứng viên thích hợp, Tòa Thánh sẽ thông báo danh tánh người được chọn cho giáo phận và yêu cầu bản quyền thông báo quyết định của Tòa Thánh cho người được đề cử, đồng thời yêu cầu vị này cho biết ý kiến. Nếu ứng viên trả lời chấp thuận, Tòa Thánh sẽ tiến hành thủ tục cần thiết để Đức Thánh Cha chính thức ký tự sắc bổ nhiệm. Tòa Thánh cũng quy định ngày công bố bổ nhiệm thư, đồng thời báo cho giáo phận và tiến chức biết ngày đó. 2)- Tại Việt Nam, tiến trình bổ nhiệm phức tạp và rắc rối hơn. Sau khi tìm được ứng viên thích hợp, Tòa Thánh sẽ thông báo danh tánh ứng viên này cho Nhà nước để tham khảo ý kiến. Theo thỏa thuận hiện nay, Nhà nước phải cho biết ý kiến trong khoảng thời gian mà hai bên đã qui định. Trên thực tế, có những trường hợp Nhà nước trả lời nhanh chóng khoảng vài ba tháng; có những trường hợp khác đã triển hạn nhiều lần và cũng có những trường hợp Nhà nước không chấp thuận người được tiến cử. Sau khi nhận được trả lời đồng thuận của Nhà nước, Tòa Thánh mới thông báo cho giáo phận và tiếp tục những thủ tục cần thiết khác. Khi báo tin cho giáo phận về ngày công bố bổ nhiệm thư thì Tòa Thánh cũng báo tin cho một vài cơ quan Nhà nước. Một số rò rỉ thông tin phải chăng đã phát xuất từ đây? Không phải vô lý mà một số người yêu cầu nên xác định rõ hơn vai trò của Nhà nước trong tiến trình bổ nhiệm giám mục tại Việt Nam. Phải chăng nên dần dần áp dụng tiến trình chung đang được áp dụng tại hầu hết các nước trên thế giới thể theo Giáo luật, Điều 377? 3)- Đối với bản thân tôi, tiến trình đã bắt đầu từ hai năm nay và thông tin cũng bị rò rỉ từ nhiều phía. Có lúc, tôi đã nghĩ đến chuyện giảm dần những công tác thường xuyên, nhưng vì chẳng biết tiến trình này sẽ đi đến đâu và kéo dài bao lâu, nên cứ tiếp tục sinh hoạt bình thường. Kết quả là hiện tại tôi ở vào tình trạng nợ nần chồng chất: Một hội nghị quốc tế, 2 cuộc tọa đàm, 2 khóa thường huấn và hai cuộc tuần tĩnh tâm. Không biết phải giải quyết như thế nào đây? Trước sau gì rồi cũng phải từ chối thôi. Dĩ nhiên, khi nghe lời cáo từ bất ngờ này, nhiều người sẽ cau mày và nhăn mặt, nhưng chắc chắn sau đó cũng sẽ thông cảm cho hoàn cảnh ngoài ý muốn này. Một điểm khác đang gây băn khoăn thao thức cho tôi: Làm sao vừa đáp ứng nhu cầu mục vụ đa diện của một giáo phận rộng lớn, nhiều cá tính và lắm truyền thống như giáo phận Vinh, vừa tiếp tục công tác loan báo Tin Mừng trong lãnh vực văn hóa – giáo dục – xã hội? Làm sao kết hiệp hài hòa giữa trách nhiệm mục vụ với công tác nghiên cứu và suy tư? Với vai trò giám mục của một giáo phận ở tận Nghệ An, không biết có còn cơ hội tổ chức Lễ hội Giáng sinh cho người có hoàn cảnh đặc biệt hay ngược xuôi trên những chuyến xe đêm để tháp tùng đoàn y tế cộng đồng? Liệu có còn dịp cỡi xe máy đi thăm các xóm nghèo, hay nhâm nhi ly cà phê đen trong những “quán cóc” bên vỉa hè để nghe các bạn trẻ tâm sự; hoặc những “buổi điểm tâm” hàng tuần với anh em điều hành CLB Phaolô Nguyễn Văn Bình để lên kế hoạch, dự thảo chương trình; những cuộc mạn đàm thú vị ở các quán cà phê sân vườn hoặc khách sạn cao cấp? Làm sao tiếp tục duy trì lối sống giản dị, gần gũi, tinh thần đối thoại, tiếp xúc thường xuyên với giáo dân, biết tiếp cận các vấn đề thời đại và hình thức làm việc nhóm? WHĐ: Là chủ nhiệm Câu lạc bộ Phaolô Nguyễn Văn Bình, một “câu lạc bộ được thành lập để gặp gỡ, trao đổi, thảo luận và học hỏi của những người Công giáo dấn thân phục vụ Giáo Hội và xã hội Việt Nam hôm nay theo tinh thần Phúc Âm”, xin Đức Cha cho biết về tương lai của Câu lạc bộ này? Đức Cha hẳn sẽ tiếp tục hình thức hoạt động này của Câu lạc bộ, chẳng hạn, bằng cách thành lập một chi nhánh của Câu lạc bộ tại giáo phận Đức Cha phụ trách? Gm NTH: Câu lạc bộ Phaolô Nguyễn Văn Bình khai sinh trong điều kiện khó khăn và hoàn cảnh rất đặc biệt, nhưng nhờ ơn trên Câu lạc bộ vẫn tồn tại và trong một thời gian ngắn đã tạo được một mảnh đất … để gặp gỡ, trao đổi, thảo luận, học hỏi giữa giới trí thức trong cũng như ngoài Công giáo. Các thành viên, các thân hữu và các đối tác quyết định duy trì Câu lạc bộ. Sau nhiều suy nghĩ và thảo luận, ban Điều hành yêu cầu tôi tiếp tục giữ chức Chủ nhiệm và bầu thêm một Phó Chủ nhiệm thường trực. Các chức vụ khác vẫn duy trì như cũ. Câu lạc bộ vừa kết thúc tốt đẹp Tọa đàm: Giới trẻ hướng về Đại hội Dân Chúa, vào cuối tháng 5. Đang chuẩn bị một Tọa đàm khác để kỷ niệm “một trăm năm ngày sinh của TGM Nguyễn Văn Bình” vào cuối tháng 8. Đặc biệt, đầu tháng 11 sẽ trở lại đề tài, mà nhiều người đang chờ đợi: Hồ sơ lịch sử và pháp lý về Biển Đông và hải đảo Việt Nam. Tôi sẽ cố gắng đồng hành với CLB trong các tọa đàm quan trọng và tin tưởng rằng việc tôi ra Vinh sẽ không ảnh hưởng đến hoạt động thường xuyên và hướng đi của Câu lạc bộ. WHĐ: Được biết từ nhiều năm nay Đức Cha đã đồng hành với Nhóm Đức tin & Văn hóa chăm lo cho những người có hoàn cảnh đặc biệt. Xin Đức Cha cho biết hoạt động này sẽ được tiếp tục ra sao khi Đức Cha nhận sứ vụ mới? Gm NTH: Nhóm Đức tin & Văn hóa được thành lập năm 2000, quy tụ một số giáo dân thuộc nghành nghề chuyên môn và tôn giáo khác nhau . Trong thời gian qua, Nhóm đã liên tiếp mở các lớp thần học giáo dân, mở phòng khám từ thiện cho các bệnh nhân HIV-AIDS, tổ chức các chuyến khám bệnh cho đồng bào nghèo ở những vùng quê, tổ chức Lễ hội Giáng sinh cho người có hoàn cảnh đặc biệt (khiếm thính, khiếm thị, khuyết tật, mồ côi, trẻ em đường phố, bệnh nhân phong, HIV-AIDS…) và một số công tác giáo dục – xã hội khác. Có những lúc tôi quá bận việc và ôm đồm nhiều chuyện nên cũng không đủ thời giờ để đồng hành với Nhóm. Tuy nhiên, Nhóm vẫn tiếp tục phát triển. Hy vọng cha Phạm Hưng Thịnh, tân Tu viện trưởng Tu viện Mai Khôi, sẽ giúp Nhóm phát triển hơn nữa. WHĐ: Xin Đức Cha giới thiệu đôi nét về ý nghĩa của Huy hiệu và Khẩu hiệu giám mục mà Đức Cha đã chọn và ý nghĩa của nó? Gm NTH: Châm ngôn mục vụ của tôi là Sự thật và Tình yêu. Châm ngôn muốn nhấn mạnh hai yếu tố căn bản: Sự thật được diễn tả bằng hai màu “đen-trắng”, lấy từ logo của Dòng Đa Minh, còn trái tim bao bọc chung quanh là biểu hiệu của tình yêu. Cả hai được nối kết với nhau và gắn chặt vào thập giá của Đức Kitô. Thật vậy, đối với tất cả các Kitô hữu, Đức Kitô chính là “con đường, sự thật và sự sống” (Ga 14, 6). Không ai có thể đến với Thiên Chúa mà không phải ngang qua Người. Và cũng chẳng ai được cứu rỗi, nếu không yêu thương như Người đã yêu thương chúng ta. Châm ngôn có hai vế. Vế đầu nhấn mạnh đến trách nhiệm kiếm tìm và phục vụ Chân lý. Thánh Đa Minh đã lấy việc loan báo Tin Mừng và phục vụ chân lý như ơn gọi của Dòng Giảng thuyết. Đòi hỏi đầu tiên của ơn gọi này là phải tôn trọng phản ánh chính xác của sự vật khách quan, cũng như các quy luật và giá trị của chúng. Yêu cầu tôn trọng sự thật khách quan vẫn được coi là thái độ lương thiện trí thức. Đức Giêsu cũng thường căn dặn các môn đệ: “Hễ có thì phải nói có, không thì phải nói không. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5,37). Theo thánh Tôma Aquinô, việc truy tầm chân lý đòi hỏi thái độ chân thành và biết mở rộng tâm hồn để đón nhận sự thật “bất cứ từ đâu tới và bất kỳ do ai nói”. Đối với các Kitô hữu, ngoài sự thật tự nhiên nói trên còn phải kiếm tìm sự thật siêu nhiên, có sức cứu độ và giải thoát con người. Đó chính “Ánh sáng vĩnh cửu chiếu soi trần gian”, mà Đức Kitô đem đến. Chính Ngài đã tuyên bố với người Do Thái: Sự thật sẽ giải phóng các ông và làm cho các ông được tự do, trái lại tội lỗi và lầm lạc sẽ nô lệ hóa con người, làm cho họ bị vong thân, băng hoại, khốn khổ (x. Ga 8, 31-36). Thánh Phaolô đã diễn tả một cách thật sắc nét phần thứ hai của châm ngôn qua Bài ca đức ái (1 Cr 13,1-14). Vị Tông đồ dân ngoại, mà tôi được hân hạnh nhận làm thánh quan thầy, quả quyết: “Giả như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi…”. Lấy oán báo oán vẫn được coi là điều dĩ nhiên ở thời đại ấy. Chỉ một số hiền nhân hiếm hoi mới vượt khỏi cái lẽ thường tình và bắt đầu đặt vấn đề về hiện tượng “oán báo oán, oán chập chùng”. Lần kia, một môn sinh hỏi Khổng Tử: “Lấy ân báo oán được chăng?”. Vị vạn thế sư biểu trả lời: “Nếu lấy ân báo oán thì lấy gì báo ân?”. Và ngài đề nghị: “Lấy chính nghĩa báo oán và lấy ân báo ân”. Phải công nhận rằng đây là một quan niệm triết lý chính trị nhân bản và tiên bộ mà suốt mấy ngàn năm qua nhân loại đã cố gắng thể hiện. Tuy nhiên, từ viễn ảnh tôn giáo, thánh Phaolô mời gọi các Kitô hữu cố gắng đi xa hơn lẽ thường tình và ngay cả triết lý chính trị tiến bộ ấy. Ngài tha thiết nhắn nhủ: “Hãy chúc lành cho những người bắt bớ anh em, chúc lành chứ đừng nguyền rủa (…). Đừng lấy ác báo ác, hãy chú tâm vào những điều mọi người cho là tốt (…). Đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác” (Rm 12, 14,17, 21). Chính Đức Giêsu đã coi “yêu thương” là điều răn căn bản của Kitô giáo: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em trên Trời” (Mt. 5,43-45). Bài giảng trên núi khai triển giáo lý căn bản này và trở thành một thứ Hiến chương Nước Trời: “…Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương… Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5, 7-10). Thánh Gioan là người đã dám định nghĩa “Thiên Chúa là tình yêu” và quả quyết “ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa”(1Ga 4,8). Đây là mạc khải tối cao và nét đặc trưng của niềm tin Kitô giáo. Trong diễn văn từ biệt, chính Đức Giêsu cũng long trọng tuyên bố: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau … như Thầy đã yêu thương anh em”. Kể từ đó “yêu thương” trở thành dấu chỉ để nhân loại nhận diện người môn đệ của Đức Kitô (x. Ga 13, 34-35). WHĐ: Hình như một số Giám mục Việt Nam đã chọn châm ngôn tương tự? Như vậy, đâu là đặc điểm và tính thời sự của châm ngôn này? Gm NTH: Đúng vậy, ít nhất trong châm ngôn của bốn giám mục Việt Nam chúng ta gặp thấy hai yếu tố “Sự thật” và “Tình yêu”, nhưng được nối kết và xếp đặt một cách khác nhau như Sự thật trong Yêu thương, Thực hành Chân lý trong Tình thương, Bác ái và Chân lý, Sự thật và Tình yêu… Phải chăng sự kiện này chứng tỏ vẻ đa diện, phong phú, tính thời sự và tầm quan trọng của hai yếu tố nói trên, nhất là từ khi Đức Biển Đức XVI công bố thông điệp “Sự thật trong Tình yêu”? Từ khi có chủ trương Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu kinh tế quan trọng, được đánh giá là ngoạn mục. Nhưng hoa hồng nào mà chẳng có gai và mề đay nào chẳng có mặt trái của nó! Kết quả thê thảm là kinh tế tăng trưởng nhanh, nhưng hình thành một xã hội rạn nứt, giả dối, đảo điên, tàn nhẫn, phi chuẩn mực. Gia đình ngày một rệu rã, rạn nứt! Con người như điên loạn, quay cuồng, sống vội, chụp dựt, buông thả, nóng ruột kiếm tiền, cắm đầu hưởng thụ và sẵn sàng đánh đổi mọi sự để có nhiều tiền hơn! Bên cạnh đó, hiện tượng giả dối đang lên ngôi: bằng cấp giả, thông tin giả, báo cáo giả, danh hiệu giả, khái niệm giả, hàng hóa giả, tiêu chuẩn giả, thành tích ảo, thậm chí sữa, bánh, thực phẩm và thuốc cũng bị “làm giả”. Dư luận vẫn băn khoăn tự hỏi tại sao một xã hội vốn có truyền thống tôn trọng nhân, lễ, nghĩa, trí, tín mà ngày nay lại đầy dẫy những thứ giả dối, lừa lọc, đảo điên và phi đạo đức đến như vậy? Nhận định về sự bóp méo thông tin trong tiến trình giải quyết một số tranh chấp, các Giám mục Việt Nam đã viết như sau: “Một số phương tiện truyền thông thay vì là nhịp cầu liên kết và cảm thông thì lại gieo rắc hoang mang và nghi kỵ (…). Ngày nay, một trong những điều gây nhức nhối lương tâm là sự gian dối trong nhiều lãnh vực, kể cả trong môi trường cần đến sự thật nhiều nhất là giáo dục học đường. Chắc chắn tất cả những ai tha thiết với tiền đồ của đất nước và dân tộc, không thể không quan tâm đến vấn đề này” (ngày 23-9-2008). Ngoài ra, tại Việt Nam tăng trưởng kinh tế chưa đồng hành với sự tăng trưởng về chất lượng cuộc sống và phát triển xã hội. Trái lại, tình trạng chênh lệch giàu nghèo đã tăng cao và người nghèo vẫn là thành phần thua thiết nhất. Trong bối cảnh đó, sự thật và công bằng là điều kiện sơ khởi và yếu tố cần thiết để xây dựng một xã hội tiến bộ và nhân bản.Tuy nhiên, chỉ một mình công bằng và chân lý mà thôi thì chưa đủ. Thật vậy, “công bằng có thể phản bội chính mình, trừ khi nó biết mở rộng cửa cho một sức mạnh sâu xa hơn, là bác ái” (Gioan Phaolô II). Dưới nhãn quan Kitô giáo, giữa sự thật, công bằng và tình thương luôn hiện diện một tương quan rất biện chứng. Nếu không thể yêu thương đích thực mà thiếu vắng công bằng và sự thật, thì khi vắng bóng tình yêu, công bằng và sự thật sẽ trở thành chai cứng, lạnh lùng, thiếu sinh khí và thiếu con tim. Chính vì vậy, Giáo huấn xã hội của Giáo hội tận lực tranh đấu cho công bằng và chân lý, nhưng sẽ không bao giờ dừng lại ở đó. Giáo hội luôn mời gọi chúng ta can đảm đi xa hơn, để vươn tới suối nguồn đích thực của chúng là tình yêu, lòng từ bi, nhân ái… Đức Giáo chủ Gioan Phaolô II đã diễn tả một cách sâu sắc mối tương quan sinh tử này: “Lòng thương xót đích thực theo một nghĩa nào đó, là nguồn cảm hứng sâu xa nhất làm phát sinh công bằng. Nếu công bằng tự nó là thích hợp cho việc phân xử giữa người với người liên quan tới sự phân phối của cải vật chất một cách công bằng, thì tình yêu và chỉ có tình yêu (bao gồm cả thứ tình yêu khoan dung mà ta gọi là lòng thương xót) mới có thể trả con người về lại với chính mình. Lòng thương xót thật sự Kitô giáo, theo một nghĩa nào đó, cũng là hiện thân hoàn toàn nhất của sự bình đẳng giữa người với người và do đó cũng là hiện thân hoàn toàn nhất của công lý vì trong lãnh vực riêng của nó, công lý cũng nhắm tới cùng một kết quả như thế. Tuy nhiên, sự bình đẳng do công bằng mang lại thường giới hạn vào lãnh vực của cải vật chất bên ngoài, còn tình yêu và lòng thương xót lại làm cho con người gặp gỡ nhau trong cái giá trị là chính con người, với phẩm giá riêng của mình” (Thiên Chúa Giàu lòng thương xót, số 14). WHĐ: Khi trở thành một thành viên của hàng Giáo phẩm, Đức cha quan tâm và muốn chia sẻ gì với Hội đồng Giám mục và với cộng đồng Dân Chúa tại Việt Nam, đặc biệt vào giai đoạn kỷ niệm năm mươi năm thành lập hàng giáo phẩm Công giáo chúng ta? Gm NTH: Tôi là lính mới trong hàng Giám mục và chưa hề tham dự các buổi họp của HĐGM cho nên không dám lạm bàn về cơ cấu tổ chức, đường hướng và cách thức làm việc… Chỉ xin mạn đàm một vài chuyện bên lề như sau. 1)- Trong Ad limina 2009, Đức Giáo chủ Biển Đức XVI biểu lộ sự trân trọng đối với các Giám mục Việt Nam khi nhắc đến hai Thư Mục vụ (1980 và 2008) của HĐGM-VN. Tiếp đến, ngài lấy lại định hướng ngắn gọn mà Đức Gioan Phaolô II đã đề nghị với HĐGM-VN: “Đối thoại thẳng thắn và cộng tác chân thành”. Sau đó, ngài đã khai triển thành một định hướng mục vụ: “Chư huynh cũng như tôi đều biết rằng một sự hợp tác lành mạnh giữa Giáo hội và cộng đồng chính trị có thể thực hiện được. Về điểm này, Giáo hội mời gọi các phần tử của mình dấn thân một cách lương thiện để xây dựng một xã hội công bằng, liên đới và bình đẳng. Giáo hội không đòi hỏi phải thay thế trách nhiệm của các nhà cầm quyền, nhưng chỉ mong muốn có thể góp phần chính đáng vào đời sống quốc gia, để phục vụ toàn dân, trong tinh thần đối thoại và hợp tác, tôn trọng lẫn nhau” (số 7). Thiết tưởng đã đến lúc HĐGM-VN nên dựa trên giáo huấn của công đồng Vatican II và những chỉ dẫn cụ thể của Đức Biển Đức XVI để đưa ra một đường hướng mục vụ phù hợp với đòi hỏi của thời đại và điều kiện cụ thể của Đất nước. 2)- Những sự việc xảy ra trong mấy tháng vừa qua phải chăng đã giúp chúng ta suy nghĩ nhiều hơn về vai trò của truyền thông? Chúng ta đang sống trong giai đoạn thông tin kỹ thuật số. Người ta không chỉ phổ biến thông tin trên nguyệt san, tuần san hay nhật báo, mà trên mạng, với nhịp độ từng giờ, từng phút và từng giây. Đối diện với hiện tượng này, nhiều người đang yêu cầu HĐGM đối thoại và chia sẻ thông tin nhiều hơn với Cộng đồng Dân Chúa. Phải chăng trước khi đối thoại với Nhà nước hay để có thể đối thoại hữu hiệu với bên ngoài cần “đối thoại thẳng thắn và công tác chân thành” với Cộng đồng Dân Chúa? Về mặt pháp lý, Giáo hội Công giáo chỉ có tờ Hiệp Thông, và cũng chỉ mới xuất hiện từ hơn 10 năm nay (12-1998), dưới hình thức một “Bản tin”, lưu hành nội bộ, với số lượng theo giấy phép chỉ vỏn vẹn 100 bản (trong thực tế, số lượng in nhiều hơn) và hai tháng mới ra một kỳ. Để trả lời cho nhu cầu thiếu và khát thông tin của giáo dân, phải chăng WHĐ nên cung cấp thông tin nhiều và nhanh hơn? Phải chăng đã đến lúc nên thực hiện điều mà nhiều Giám mục đã đề nghị: Cần thiết một “phát ngôn viên” chính thức và những “kênh” truyền thông thường xuyên. 3)- Thiết tưởng cũng đã đến lúc nên thẳng thắn phê bình và đóng góp ý kiến với Nhà nước về những gì bất ổn hay chưa hoàn thiện, nhất là những gì liên hệ đến nhân phẩm và nhân quyền. Nhưng đồng thời cũng cần tán đồng và hỗ trợ những chương trình ích quốc lợi dân. Phải chăng cũng nên mạnh mẽ lên tiếng khi cần thiết và kiên trì thuyết phục để Giáo hội có thể thực hiện sứ mệnh phục vụ của mình trên mọi lãnh vực, đặc biệt trong các lãnh vực giáo dục, y tế, bác ái xã hội, truyền thông…. 4)- Ngoài ra, do kinh nghiệm bản thân hay do hoàn cảnh cụ thể ở địa phương hoặc do cả hai, một số người Công giáo vẫn quả quyết rằng không thể đối thoại với Nhà nước này, vì sự xung khắc ý thức hệ và vì sự tráo trở, mánh khóe, thủ đoạn… của một số quan chức. Mọi chấp nhận đối thoại chỉ là một thứ “lạc quan ngây thơ” hay đã bị mắc mưu! HĐGM nghĩ gì về thực trạng này? Có đường hướng giải quyết nào không? Phải chăng việc đối thoại nội bộ và đào sâu Giáo huấn xã hội của Giáo hội trở thành một nhu cầu khẩn thiết? Dĩ nhiên, đây chỉ là một vài ý nghĩ vội vàng và thô sơ, cần được đào sâu hơn. Dù sao, xin cám ơn WHĐ đã đặt câu hỏi để có dịp suy nghĩ. Nhân dịp này, xin mời quý độc giả ra Vinh để hiệp thông với giáo phận chúng tôi: Lễ tấn phong giám mục sẽ cử hành tại Tòa giám mục Vinh, lúc 7g30 sáng, ngày 23 tháng 7 năm 2010. Xin đa tạ.
|