Tòa Thánh Chỉ Là Tòa Thánh (1) |
Tác Giả: Bạch Diện Thư Sinh | |||||
Thứ Năm, 22 Tháng 7 Năm 2010 20:57 | |||||
Đạo như con thuyền trôi trên dòng nước trần thế, nếu thuyền Đạo để cho nước thế tục tràn vào thì sẽ chìm đắm.
Xin mời đọc lại vài đoạn trong bài viết của ‘Bố’ Quế: ‘Một nhà truyền giáo đã sống và làm việc nhiều năm tại Việt Nam cho đến năm 1975, hiện là Tổng Quyền một Hội Truyền Giáo quốc tế, mới đây có cho một linh mục Việt Nam biết là Vatican không hiểu biết gì về Việt Nam. Một linh mục Việt Nam khác sinh sống và làm việc mấy chục năm nay tại một nước Âu châu, cũng nói rằng tín hữu Viêt Nam thuộc một nước nhỏ, nên không được Vatican đếm xỉa….. Tiếp đến là mối lo ngại của rất nhiều người Công giáo Việt Nam, qua cách hành xử của Vatican và HĐGMVN, khi họ thấy cả hai như đi vào một con đường mà không phải là con đường họ mong đợi. Có thể vì thế mà đức tin của họ bị chao đảo. Họ rất hoang mang lo lắng khi được biết hiện có một “Vũ Ngọc Nhạ” ngay tại Vatican’. Rồi ‘Bố’ Quế kết luận: ‘Nói tóm lại, mối lo ngại lớn ở đây là sự xói mòn hay mất lòng tin nơi những vị cầm cân nẩy mực trong đời sống đức tin của Giáo hội, đối với cộng đồng tín hữu ở khắp nơi và riêng tại Việt Nam’. Vâng, lần này lạ lùng lắm. Một vị tu hành đạo cao đức trọng như ‘Bố’ Quế, có lẽ cảm thấy tình đời lẽ Đạo trái khoáy thế nào đó và nó bào xé tâm can quá sức chịu đựng cho nên mới bắt buộc ‘Bố’ phải hành xử trái với bản tính hòa hòa, trầm trầm cố hữu của ‘Bố’. Bài viết của ‘Bố’ Quế không là một tiếng trống lẻ loi, nhưng đã hợp cùng bài viết của các vị khác như: Lm. Nguyễn Ngọc Tỉnh, Ts. Trần An Bài, Lm. Phan Văn Lợi, J.B. Nguyễn Hữu Vinh, Alf. Hoàng Gia Bảo…đồng loạt gióng lên trước công luận mối băn khoăn, lo lắng về những sự kiện nghịch thường mới đây đã xẩy ra trong GHCGVN mà hậu quả là có thể làm xói mòn niềm tin của một bộ phận tín hữu vào giáo quyền. Một số tác giả, nhất là Linh mục Phan Văn Lợi, đã chỉ thẳng ngón tay vào nhân vật Cao Minh Dung, một viên chức tùng sự tại Bộ Ngoại giao Vatican. Vì không biết chi về nhân vật này cho nên tôi không dám lạm bàn. Nhưng tôi rất quan tâm tới 2 chi tiết trong bài của “Bố’ Quế, đó là có thật ‘Vatican không hiểu biết gì về Việt Nam’ và ‘tín hữu Việt Nam thuộc một nước nhỏ, nên không được Vatican đếm xỉa…’? 1. Vatican và việc lật đổ nền Đệ Nhất Cộng HòaTại Phân trại E, trại tù kiên giam A 20 (Xuân Phước, Đồng Xuân, Phú Yên), có một dạo, tôi nằm cạnh cụ Võ Văn Hải, Chánh văn phòng Tổng thống Ngô Đình Diệm (2). Và đương nhiên tôi đã hỏi Cụ Hải một số câu hỏi. Có câu Cụ trả lời, có câu không. Tôi nhớ ít nhất là 2 lần Cụ Hải nói với tôi rằng Vatican là một trong những thế lực đầu tiên trách cứ Tổng thống Ngô Đình Diệm (không tiết lộ thêm chi tiết)! Sau đó vài năm, tại Phân trại B cũng thuộc trại A 20, chỗ tôi nằm đối diện chỗ ông Tổng trưởng Ngô Khắc Tỉnh và thỉnh thoảng tôi có dịp nói chuyện với ông. Ông cho tôi biết ông vẫn giữ mối tương kính đối với bà Ngô Đình Nhu. Nhân một lần ghé Roma, ông tới thăm Bà, lúc đó đang sống tại một biệt thự cổ. Trong câu chuyện, Bà Ngô Đình Nhu nói với ông tổng trưởng đại ý (không thể nhớ nguyên văn) là nay bà sống gần Tòa Thánh và nhận thấy Tòa Thánh ‘đã hiểu ra nhiều hơn’ ( ý nói về biến cố Phật giáo 1963). Có nghĩa là trước đây Vatican không hiểu nhiều? Linh mục Trần Văn Kiệm, bạn vong niên của Tổng thống Ngô Đình Diệm, trong bài viết ‘Có Phải Hoa Thịnh Đốn Đã Đưa Ông Diệm Về Làm Tổng Thống Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam?’, đã tiết lộ: ‘…Đặc biệt là cuộc hội kiến ngày 15 tháng 8 1963, có mặt Đức Cha Ngô đình Thục và một chức sắc cao cấp Hoà Hảo mà tôi không nhớ tên (thiếu ông Nhu). Hôm đó chúng tôi thảo luận về chính sách Hoa kì và Vatican, lại nói về những âm mưu đen tối của Đại sứ Cabot Lodge…’ (dunglac.org). Như thế, có lẽ Linh mục Trần Văn Kiệm là người duy nhất hiện còn sống (năm nay 2010, thượng thọ 90 tuổi) biết được tại sao trong dinh tổng thống đã phải họp bàn về chính sách của cả Washington lẫn Vatican. Chúng ta chưa biết các vị bàn những gì trong dinh, nhưng theo mạch văn của Linh mục Trần Văn Kiệm, chắc chắn lúc đó Tổng thống Ngô Đình Diệm đang gặp khó khăn từ cả Hoa Kì lẫn Vatican. Tại Công Đồng Vatican II (1962-1965, để canh tân Giáo Hội), đã ghi nhận Đức Tổng Giám mục Ngô Đình Thục có lập trường bảo thủ trong một số điểm. Điều đó không có chi lạ, bởi vì đâu phải chỉ một mình Đức TGM. Ngô Đình Thục có quan niệm bảo thủ. Điều làm cho nhiều người lấy làm kinh ngạc là tại sao từ cuối tháng 12 năm 1975 tới 24 tháng 9 năm 1982, Đức Tổng Giám mục Ngô Đình Thục vẫn tiếp tục không tuân thủ những điểm canh tân của Công Đồng Vatican II, nhất là không công nhận đấng kế vị Thánh Phêrô và đã tự ý phong cho một số người làm giám mục để đến nỗi bị rút phép thông công tới 2 lần (3). Mong sau này sẽ có câu trả lời thỏa đáng, song nếu đặt mình vào vị trí của Đức Tổng Giám mục phải trải qua một đại họa thảm khốc của gia đình và của quốc gia - 3 người em bị giết chết cách thảm thương do người quốc gia (không kể anh cả Ngô Đình Khôi bị Cộng Sản sát hại cùng con trai là Ngô Đình Huân vào năm 1945), bản thân phải sống lưu vong không được về Việt Nam dự tang lễ của thân mẫu; còn quốc gia thì rơi vào tình trạng hỗn loạn triền miên và cuối cùng lọt vào tay Cộng Sản – thì dù không chấp nhận được việc làm sai trái của ngài, cũng có thể hiểu đó là phản ứng của kẻ liên tiếp bị những cú choáng quá nặng nề dẫn đưa tới tình trạng bị khủng hoảng niềm tin và một chuỗi những việc làm đáng tiếc? (4) Kết hợp 4 chuyện kể trên, cùng với những tài liệu của HK được giải mật sau này, cho phép tạm kết luận: Khi Hoa Kỳ có ý đồ thay ngựa giữa dòng, họ đã tung ra những đòn độc. Một trong những miếng đòn độc chết người đó là quái chiêu ‘đàn áp Phật giáo’. TT Ngô Đình Diệm đã bị đánh trúng miếng đòn chí mạng này. Thế giới khắp nơi kết án TT Ngô Đình Diệm kì thị và đàn áp Phật giáo. Điều tôi nhấn mạnh ở đây là có lẽ Vatican đã bị người Mĩ ảnh hưởng cách nào đó cho nên cũng đã tin rằng TT Ngô Đình Diệm phạm tội kì thị và đàn áp Phật giáo, rồi đồng tình với chính sách thay ngựa giữa dòng hết sức tai hại của chính phủ Kennedy. Đặc biệt, theo tài liệu của Bộ Ngoại Giao Mĩ và của Ngũ Giác Đài mới được giải mật thì người Mĩ đã sắp xếp để Vatican gọi Đức Tổng giám mục Ngô Đình Thục qua Vatican và lưu lại đó dài hạn vào đúng thời điểm diễn ra cuộc đảo chánh ngày 01 tháng 11 năm 1963 (5). Ngày 30.8.1963, đang lúc xẩy ra biến cố Phật giáo, Vatican đã gửi đi thông điệp của Đức Giáo hoàng Paul VI có đoạn như sau: ‘Đức Giáo hoàng bày tỏ sự quan tâm đau đớn theo dõi các biến cố bi thảm đang giày vò dân Việt Nam qúy mến, trong khi mà sự lo âu ngày càng sâu xa và nhức nhối…Và ngài cầu mong cho tất cả mọi người, trong sự hợp tác khoan dung và tương kính về các quyền tự do hợp pháp, sẽ hiệp nhất để thiết lập sự hòa thuận với nhau và tình huynh đệ’. (’ Le Pape exprime sa douloureuse préocupation au sujet des tristes évènements qui affigent le cher peuple Viêtnamien, tandis que l’angoisse devient de jour en jour plus profonde et lancinante...Et il fait des voeux que tous, dans une généreuse collaboration et dans un mutuel respect des libertés legitimes, unissent pour rétablir la concorde réciproque et la fraternité’). Lời lẽ của thông điệp đầy ắp sự cảm thông sâu xa, cao cả, nhưng trong thực tế, Vatican lại đứng về một phía trong biến cố Phật giáo năm 1963. Ngày 01.11.1963, Tổng thống Ngô Đình Diệm bị nhóm phản loạn giết, không ghi nhận một thánh lễ cầu hồn nào cho Ngô tổng thống được tổ chức tại Roma. Thế nhưng sau đó 3 tuần, ngày 22.11.1963, TT Kennedy bị ám sát chết thì ‘Tại Vatican, trong Đại giáo đường Thánh Gioan Latêrô quy tụ 10 ngàn người dự lễ do Hồng y Francis Spellman cử hành. Đến tham dự còn có hầu hết trong số 2.200 hồng y, tổng giám mục, và giám mục đang họp Công Đồng (Vatican II), Tổng thống Antonio Segni, và các viên chức chính phủ khác của Ý cũng đến dự’ (6). Nhận thấy cả hai vị tổng thống đều do dân bầu và đều là tín đồ Công giáo. TT Kennedy nổi tiếng hào hoa phong nhã, còn Ngô Tổng thống vốn một lòng tín mộ và suốt đời sống khổ hạnh! Cách phân biệt đối xử ở Vatican trước 2 cái chết của 2 nhân vật chính trị đặc biệt này đã nói lên rất nhiều điều. Trước tình cảnh này, nếu không tuyệt đối Tin, Cậy, Mến vào Thiên – Chúa - Đấng - Chí - Công, người tín hữu sẽ dễ cảm thấy chua xót và đâm ra thất vọng! Thuật lại những điều trên đây để thấy vị Tổng quyền Hội truyền giáo quốc tế trong bài viết của ‘Bố’Quế đã không vô cớ mà dám nói Vatican ‘chẳng hiểu gì về Việt Nam’! 2. Lòng đạo đức của Vatican giúp Mĩ tháo chạy ‘trong danh dự’ nhưng cột tay VNCH lại trước thù trong giặc ngoàiNăm 1965, chính vào lúc người Mĩ bắt đầu đổ quân ồ ạt vào VN thì cũng là lúc nhóm chủ bại tại HK dần dần thắng thế. Nhóm này cho là HK không thế chiến thắng bằng quân sự cho nên họ bắt đầu đi tìm giải pháp chính trị. Tháng 10.1965, Đức Giáo hoàng Phaolô VI tới đọc diễn văn tại Liên Hiệp Quốc và kêu gọi ‘ …không bao giờ để xẩy ra chiến tranh nữa’ (‘No more war, never again war’) và thế giới nồng nhiệt đón nhận thiện chí yêu chuộng hòa bình của ngài. Tổng thống Mĩ L.B.Johnson mau lẹ nắm bắt lấy cơ hội tốt nhất này, tức là lợi dụng uy tín đạo đức của Đức Giáo hoàng Phaolô VI để yêu cầu ngài làm trung gian bác nhịp cầu tiếp xúc với CSBV. Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã nhận lời. Từ 1965 tới 1968, Tổng thống L.B. Johnson gặp Đức Giáo hoàng Phaolô VI hai lần (Tháng 10. 1965, lần đầu tiên, TT Johnson gặp Giáo chủ tại khách sạn Waldorf-Astoria, New York, bàn chuyện tìm kiếm hòa bình; lần gặp thứ hai, trước Noel 1967, khi TT Johnson trên đường từ Úc, Việt Nam, Thailand về, đã ghé qua Roma) (7); gửi 3 lá thư; cử nhiều phái đoàn đi Vatican (trong đó, có cuộc gặp gỡ của Phó TT Hubert Humphrey với Đức Giáo hoàng tại Florence đầu năm 1967. Đại sứ tại VN là Henry Cabot Lodge tới Vatican vào tháng 5.1966…). Ngoài việc xin giúp bác nhịp cầu tiếp xúc với CSBV, Tổng thống Johnson còn xin Đức Giáo hoàng can thiệp về việc đối xử với tù binh Mĩ tại Hà Nội và xin dùng ảnh hưởng đưa Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tới bàn đàm phán để tìm kiếm hòa bình (8). Ngày 15.6.1966, Đức Giáo hoàng Paul VI gửi thư cho các Giám mục VN có đoạn như sau: ‘Mối quan tâm của Ta đối với chư huynh và Tổ Quốc của chư huynh đã thúc đẩy Ta đảm nhận những cuộc vận động mới mẻ, nhằm làm cho ngày ấy mau tới. Trong ngày đó, người không còn nghe thấy tiếng kêu của vũ khí, các khối óc sẽ có thể đến lại gần nhau, và lợi dụng từng cợ hội, nếu mong manh thế nào đi nữa, ngõ hầu tiến tới một giải pháp công bằng và hòa bình của cuộc khủng hoảng. Ta nghĩ rằng Ta có nghĩa vụ làm tác vụ Tông tòa, đó là tiếp tục nỗ lực này cho đến lúc, mà ở đó Chúa Kitô sống lại nguyện ước và cứu độ “Bình An Cho Các Ông”, trở thành hiện thực cho dân tộc Việt Nam yêu quí. Chớ chi bình an ngự trị trong lòng mọi người; chớ chi tấm lòng biểu lộ những hành vi có lợi cho mọi thành viên của cộng đoàn; chớ chi các tấm lòng đều đâm rễ sâu trong trật tự, tiến bộ xã hội và công lý. Muốn cho bình an tiến tới – và không nhằm đến lợi ích nhỏ mọn nhất của trần thế - Ta sẵn sàng hợp tác vô giới hạn, đồng thời nhắc nhở các nguyên tắc, nhất thiết phải làm chỗ dựa cho hoà bình, nếu hoà bình muốn được công chính và bền vững…’ Sau đó ít lâu, vào cuối tháng 9.1966, Đức Giáo hoàng đã gửi Tổng giám mục Sergio Pignedoli tới Sài Gòn để truyền đạt quan niệm và đường lối tìm kiếm hòa bình cho Việt Nam của ngài. Quan niệm và đường lối ấy được trình bầy khéo léo ngay ở khúc mở đầu của bản Thông Cáo phổ biến sau cuộc làm việc của Tgm. Pignedoli với Hội đồng Giám mục Việt Nam : ‘Đức Giáo Hoàng luôn luôn tha thiết đến tình trạng đau thương của dân tộc Việt Nam đang quằn quại trong đau khổ vì chiến tranh. Ngài đã không bỏ qua một cơ hội nào hay một phương tiện nào có thể, để tìm giải pháp đem lại Hòa bình cho thế giới và riêng cho nước Việt Nam thân yêu của chúng ta, ngõ hầu tránh những điêu tàn khốc hại. Tháng này năm ngoái, tại Liên Hiệp Quốc, Ngài đã kêu gọi chấm dứt chiến tranh và mọi mầm mống của nó. Cả thế giới đều xúc động về lời kêu gọi chân thành này. Mới đây, trong Thông điệp về kinh Môi Khôi (Christi Matris Rosarii 15-9-66) Ngài nhân danh Thiên Chúa, lớn tiếng "kêu gào các nhà lãnh đạo các dân tộc hãy cố gắng tìm cách dập tắt ngọn lửa chiến tranh và tận diệt nó". Ngài nói: "Các nhà lãnh đạo đang cầm vận mạng của nhân loại, hãy nhớ rằng mình mang trách nhiệm rất nặng nề đối với lương tâm". Chúng tôi, hàng Giáo phẩm Việt Nam, họp tại Saigon dưới quyền chủ tọa của Đức Đặc Sứ Tòa Thánh, là Đức Tổng Giám mục SERGIO PIGNEDOLI, hoàn toàn hợp ý với Đức Giáo Hoàng, lập lại lời kêu gọi thiết tha: "Nhân danh Thiên Chúa, xin hãy dừng lại! Hãy gặp nhau, hãy đi đến bàn hội nghị, hãy thành thật thương thuyết. Chính ngay bây giờ hãy giải quyết các mối bất hòa tranh chấp, dầu phải chịu chút ít thiệt thòi, vì thế nào rồi cũng phải hòa giải, nhưng có lẽ với nhiều tai hại tàn khốc khủng khiếp mà hiện nay không ai lường được". "Tuy nhiên muốn tái lập Hòa bình, thì Hòa bình ấy phải căn cứ trên công lý và tự do, phải tôn trọng quyền lợi cá nhân cũng như của đoàn thể, chẳng vậy Hòa bình sẽ không vững chắc và lâu dài". Bởi vậy chúng tôi kêu gọi hết thảy mọi người thành tâm thiện chí hãy cùng chúng tôi nỗ lực đạt tới mục tiêu cao cả ấy. Phần chúng tôi, cương quyết đem hết khả năng và thiện chí đáp ứng lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng…’ (Mời đọc toàn văn bản Thông Cáo tại Chú thích số 9). Vị tân giám mục giáo phận Vinh Nguyễn Thái Hợp, khi còn là linh mục, cũng đã xác nhận sự việc trên đây: ‘Đối diện với cuộc chiến tranh ngày càng tàn khốc tại Việt Nam, đức Phaolô VI tuyên bố, với tư cách một người lãnh đạo tôn giáo, ngài không thể không lên tiếng. Kể từ lễ Giáng sinh năm 1965, ngài đã đưa ra nhiều đề nghị và sáng kiến hòa bình cho Việt Nam bằng con đường thương thảo. Cuối tháng 9 năm 1966, ngài cử TGM Sergio Pignedoli làm Đặc sứ Tòa Thánh để yêu cầu các Giám mục Việt Nam nên có thái độ mềm dẻo hơn trước tình hình của đất nước. Nhờ Phái đoàn, Hội Đồng Giám mục Việt Nam ra thông cáo tuyên bố hoàn toàn đồng thuận với đức Giáo Chủ và lặp lại y nguyên lời kêu gọi tha thiết của ngài: “Nhân danh Chúa, xin hãy dừng lại. Hãy gặp gỡ nhau, hãy đi tới bàn hội nghị, hãy thành thật thương thuyết. Ngay bây giờ hãy giải quyết các mối bất hòa tranh chấp, dù có phải chịu thiệt thòi chút ít, vì thế nào rồi cũng phải hòa giải, nhưng có lẽ với nhiều tai họa thảm khốc hơn mà hiện nay không ai lường được’ (10). Văn chương của bản Thông Cáo của Hội đồng Giám mục VN xem ra vô cùng đạo đức, đẹp đẽ, song đó chỉ là văn chương có tính cách lí thuyết, có tính cách mời gọi hướng tới một lí tưởng đạo đức. Trong thực tế, người ta bảo rằng, khi ‘làm việc’ với các giám mục Việt Nam,vị đặc sứ Vatican đã khuyến cáo các vị giám mục miền Nam phải thích nghi với tình hình, phải tìm cách tách ra khỏi con đường bế tắc của HK và chế độ Sài Gòn. Ông nói Vatican không đồng tình với những cuộc xuống đường mang màu sắc đối kháng tôn giáo và biểu thị liên hệ gắn bó với nền Đệ nhất Cộng hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Đồng thời, ông lưu ý Giáo hội CGVN phải theo tinh thần yêu chuộng hòa bình của Công Đồng Vatican II và ủng hộ công cuộc vận động hòa bình cho Việt Nam của Đức Giáo hoàng Phaolô VI thay vì tiếp tục hận thù và đeo đuổi chiến tranh! Bất chấp nỗ lực của các nhà đạo đức ‘ở cõi trên’, Tết Mậu Thân đầu năm 1968, Cộng quân bất ngờ đồng loạt mở cuộc tổng tấn công khắp các tỉnh thành ở miền Nam. Một vài toán nhỏ quân biệt động CS lọt được cả vào khuôn viên tòa đại sứ Mĩ ở Sài Gòn. TT. Johnson phải thông báo sẽ không ra tranh cử tổng thống nhiệm kì mới. Tuy nhiên, Washington vẫn tiếp tục nhờ cậy Đức giáo hoàng trong nỗ lực chấm dứt chiến tranh. Mãi tới cuối tháng 8 năm đó, khi cuộc tranh cử tổng thống giữa Hubert Humphrey và Richard Nixon bước vào giai đoạn gay cấn thì chính quyền của TT. Johnson mới chấm dứt việc nhờ cậy Vatican. Để chứng tỏ lập trường trung lập, năm 1967, Đức Giáo hoàng kêu gọi hai bên ‘Phải chấm dứt các cuộc oanh tạc trên lãnh thổ Bắc Việt và đồng thời cũng phải chấm dứt những cuộc xâm nhập vũ khí và vật liệu chiến tranh vào miền Nam’ (11). Ngài còn muốn viếng thăm cả miền Bắc lẫn miền Nam vào dịp lễ Giáng Sinh năm 1968, nhưng không được CBBV chấp thuận. Trung tuần tháng 9. 1970, khi đi thăm Á châu, ngài ‘né’ không tới thăm Đài Loan và Nam Việt Nam là 2 nước chống Cộng, mặc dù Việt Nam có số tín hữu đông thứ nhì ở Á châu. Và khi bay qua lãnh thổ Việt Nam ngài đã chọn ngay tại vĩ tuyến 17 là làn ranh phân chia Bắc Nam và gửi thông điệp cho cả Sài Gòn lẫn Hà Nội. Ngày 14.02.1973, Đức Giáo hoàng chính thức tiếp Xuân Thủy là trưởng phái đoàn CSBV tại Hòa đàm Paris và Ngài gọi đó là ‘ngày đáng ghi nhớ’. Rồi 3 tháng sau, ngày 12.5.1973, Ngài lại tiếp Bộ trưởng Nguyễn Văn Hiếu của Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam. Trước đó, vào tháng 2 năm 1971, Nguyễn Thị Bình, Bộ trưởng Ngoại giao của Chánh phủ CMLTMNVN kiêm Trưởng phái đoàn của Mặt trận GPMNVN tại Hòa đàm Paris, đã tới Vatican và được giới chức cao cấp Vatican tiếp đón (12). Đầu tháng 4.1973, trong chuyến công du sau khi Hiệp định Paris ra đời (Đi Hoa Kỳ, Anh, Tây Đức, Ý, Vatican, Đại Hàn và Đài Loan), TT Nguyễn Văn Thiệu cũng được Đức Giáo hoàng Phaolô VI tiếp kiến lâu 1 giờ. Nhân dịp,Tổng thống trình lên ngài danh sách 37 ngàn tù binh Cộng Sản để chứng minh VNCH không hề giam giữ tới ‘300 ngàn tù chính trị’ theo luận điệu dối trá của Cộng Sản và các phần tử thân Cộng (chẳng hạn như nhóm báo CHỌN của Lm. Trương Bá Cần và ĐỨNG DẬY của Lm. Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan…). Mới đây, qua điện thoại, nhà báo kì cựu Vũ Ánh (trước 30.4,1975 ông là Chánh sở Thời sự Hệ thống Truyền Thanh Quốc gia; hiện làm cho Viet Herald,Nam California) kể lại cho tôi: ông được tháp tùng chuyến đi này của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, tuy không được tới gần, nhưng đã tận mắt nhìn thấy Tổng thống bắt tay, hôn nhẫn Đức Giáo hoàng Phaolô VI và được ngài mời ngồi xuống để đàm đạo, và khi ra về ‘dáng mặt Tổng thống có vẻ đăm chiêu, buồn bã’. Không ai biết hết lí do tại sao Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu buồn, nhưng chắc là có chuyện Tổng thống phải thanh minh với Đức Giáo hoàng về vụ 300 ngàn tù chính trị ‘ma’do các kí giả thân Cộng Âu Mĩ vào hùa với CSBV cùng bọn tay sai bịa đặt ra. Vài nhận xét: Cuộc chiến Việt Nam do CSBV chủ động gây ra vì họ muốn nuốt trọn miền Nam, muốn bành trướng chủ nghĩa Cộng Sản trên bán đảo Đông Dương. VNCH chiến đấu để tự vệ cho một miền Nam tự do (mời đọc trích đoạn sử gia Trần Gia Phụng ở chú thích số13). Người Mĩ tham chiến ở Việt Nam để xây dựng ‘tiền đồn thế giới tự do’ giống như đã chiến đấu ở bán đảo Triều Tiên đầu thập niên 1950 để ‘ngăn chặn làn sóng đỏ’.... Nếu họ có đóng quân ở lại như ở Nam Hàn hay ở Nhật…cũng không có ý chiếm đất, mà chỉ để ngăn Cộng Sản lấn tới (mời đọc trích đoạn Giáo sư Robert F. Turner tại chú thích số 14). Còn Trung Cộng giúp cho CSBV đánh chiếm Miền Nam thì khác hẳn. Bởi vì một khi CSBV chiến thắng thì Trung Cộng sẽ có nhiều lí do để chiếm đất, chiếm biển của VN và sẽ từ từ đưa VN vào vòng nô thuộc mọi mặt. Trước đây 50 năm, Ông Ngô Đình Nhu đã cảnh cáo: ‘Các nhà lãnh đạo miền Bắc, khi tự đặt mình vào sự chi phối của Trung Cộng, đã đặt chúng ta trước một viễn ảnh nô lệ kinh khủng. Hành động của họ, nếu có hiệu quả, chẳng những sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển của chúng ta, mà lại còn đe dọa đến sự tồn tại của dân tộc. Sở dĩ, tới ngày nay, sự thống trị của Trung Cộng đối với Việt Nam chưa thành hình, là vì hoàn cảnh chính trị thế giới chưa cho phép, và sự tồn tại của miền Nam, dưới ảnh hưởng của Tây phương là một trở lực vừa chính trị vừa quân sự cho sự thống trị đó. Giả sử mà Nam Việt bị Bắc Việt thôn tính, thì sự Trung Cộng thôn tính Việt nam chỉ là một vấn đề thời gian’. (Trích cuốn Chính Đề Việt Nam của Tùng Phong (tức là Ông Ngô Đình Nhu và một số phụ tá). Nxb Đồng Nai, Saigon,1964. In lại năm 2009. Trang 212). Như thế, quân dân miền Nam chiến đấu vừa để chống họa Cộng Sản vừa để bảo vệ bờ cõi đất nước. Thế mà Đức Phaolô VI, vì quan điểm hòa bình vô điều kiện của mình, đã không đếm xỉa gì tới chính nghĩa chiến đấu tự vệ của VNCH. Thay vì phải tích cực cổ vũ, vận động thế nào để CSBV phải từ bỏ tham vọng, từ bỏ âm mưu xâm lấn miền Nam tự do thì ngài lại kêu gọi mỗi bên phải nhường nhịn, ‘dầu phải chịu chút ít thiệt thòi’. Đức Giáo hoàng và đa số các nhà đạo đức Âu Mĩ chưa đủ kinh nghiệm để nhận ra điềm chết người này: đối với bọn Cộng Sản qủy quyệt, nhường nhịn có nghĩa là sẽ mất trắng! Đức Giáo hoàng Phaolô VI có thiện chí tìm kiếm hòa bình. Nhưng vì không nắm rõ nguyên nhân chính yếu của cuộc chiến; không hiểu đúng mức bản chất độc ác, xảo quyệt của CSBV; không nắm được ý đồ muốn tháo chạy của người Mĩ và không có viễn kiến về hậu quả tai hại thế nào cho dân tộc Việt Nam khi Cộng Sản Bắc Việt thôn tính toàn cõi Việt Nam cho nên vị Giáo hoàng đạo đức, tốt lành đã nhúng tay vào một trò chơi chính trị lật lọng, dối trá, bẩn thỉu. Những cuộc tiếp đón các viên chức cao cấp của Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam tại Vatican, cho thấy Vatican cũng đã bị Cộng Sản Bắc Việt ‘bịp’như họ đã ‘bịp’ được dư luận và nhiều chính phủ các nước Âu Mĩ lúc đó. Khi điểm cuốn Hồi ức Nguyễn Thị Bình, Ts. Lâm Lễ Trinh đã viết về màn đại bịp này như sau: ‘Trong bài #Những kỷ niệm không bao giờ quên, (HU, trang 477), Lê Mai, cựu thành viên đoàn đại biểu CS tại Hội nghị Paris, từng phụ trách đàm phán 18 năm (1977-1995) với Hoa Kỳ để bình thường hóa ngoại giao giữa hai nước, kể lại: #Năm 1983, anh Lê Ðức Thọ, Ủy viên Bộ Chính trị, người trực tiếp đối thoại với Kissinger, bảo tôi viết cho anh một bài để kỷ niệm 10 năm ký Hiệp định Paris. Tôi hỏi nên viết cái gì và liều lượng ra sao. Anh bảo: #Cậu viết sao để độc giả trong nước và nước ngoài nhận thức được thắng lợi có ý nghĩa nhất của Hiệp định Paris là quân Mỹ phải rút ra khỏi miền Nam Việt Nam, còn quân miền Bắc thì vẫn ở lại miền Nam, dẫn đến việc thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho ta, cho phép ta đánh nhào quân ngụy để giải phóng miền Nam Việt Nam, thống nhất đất nước. Nói tóm tắt, Hoa Kỳ đã bị bịp. Hà nội quyết tâm vi phạm Hiệp định bằng võ lực, sau đó giải tán con cờ thí MTGPMN khi đạt mục tiêu, bất chấp giải thưởng Nobel Hòa bình dâng cho Lê Ðức Thọ’. (Lâm Lễ Trinh. Hồi Ức Nguyễn Thị Bình. phanchautrinhdanang.com) (15) Giáo lí về Đạo Yêu Thương của Chúa Giêsu hết sức mới mẻ và rất ‘ngược đời’: phải yêu kẻ thù của mình, nó tát má này thì đưa thêm má kia cho nó tát, nó đòi cái áo ngoài thì cởi luôn áo trong cho nó…Và khẩu hiệu của Giáo Hội sau Công Đồng Vatican II là đối thoại chứ không đối đầu, lấy tình yêu thương để thắng hung tàn. Cao cả quá! Người đời mấy ai theo cho được. Nếu đem áp dụng vào cuộc đời này, nhất là đối với bọn Cộng Sản qủy quyệt, tham lam, tàn ác thì về lâu về dài không biết kết quả ra sao, nhưng trước mắt chỉ thấy từ chết đến bị thương mà thôi. Bởi vì đạo đức của đạo đức thì khác với ‘đạo đức’ của chính trị. Ngày nay, ai cũng thấy rõ, thiện chí và nỗ lực của Vatican hồi ấy là công dã tràng. Hai thập niên trước, thế giới đã hết sức ngưỡng mộ cảnh Đông Đức và Tây Đức xum họp một nhà yên ấm, hòa bình; đã thán phục Nam Hàn hưng phấn tiến lên cực kì nhanh chóng mọi mặt. Còn Việt Nam thì sao? Vatican có công khởi đầu tiến trình dẫn dắt cho HK và CSBV tiếp xúc, gặp gỡ để âm mưu bán đứng miền Nam cho CSBV. Cái Hiệp định Paris 1973 nói là để chấm dứt chiến tranh, thực chất chỉ là để cho ‘đồng minh (Mĩ) tháo chạy’, đồng thời nó trói tay VNCH lại để cho CSBV dễ dàng thâu tóm toàn cõi đất nước. Hậu quả là, trong 35 năm qua, Việt Nam nằm gọn trong bàn tay sắt máu của đảng Cộng sản toàn trị; tuy đất nước có thống nhất, nhưng đối với đa số người dân thì Tự Do, Độc Lập, Hạnh Phúc vẫn chỉ là cái bánh vẽ. Còn họa mất đất, mất biển và từng bước rơi vào vòng nô thuộc người Tàu, như viễn kiến của ông Ngô Đình Nhu cách đây nửa thế kỉ, thì đã rõ như ban ngày! Trong sứ mạng tôn giáo, Vatican luôn luôn cổ vũ và tìm kiếm hòa bình cho nhân loại. Thiện tai! Thiện tai! Song thiện ý là một chuyện, phương cách thi hành và hiệu quả đạt được lại là một vấn đề khác. Đức Giáo hoàng ở trên cao quá, việc thế sự nằm trong tay vị Quốc vụ khanh và Bộ Ngoại giao Vatican. Dù nói thế nào, các vị này cũng vẫn chỉ là những con người đang sống tại thế gian này. Riêng trường hợp Việt Nam, dường như các viên chức cao cấp của Vatican , trong tư thế của những chính khách mặc áo dòng, đã từng ảnh hưởng vào chính tình phức tạp ở miền Nam Việt Nam và nhất là đã nhúng tay vào việc tìm kiếm một thứ hoà bình bánh vẽ không có cái nhân công lí cho Việt Nam. Hậu quả là dân Việt, nước Việt bắt buộc ăn cái bánh vẽ không có nhân công lí này, tuy còn ngấp ngoái chưa chết, nhưng phát sinh đủ thứ tật bệnh hết thuốc chữa. Những gì đang xẩy trong Giáo hội Công giáo Việt nam hiện nay, lại bắt đầu khiến cho những người quan tâm lo ngại: Có đâu lịch sử lại tái diễn? Kết luậnGiáo hội Công giáo Việt Nam đương nhiên phải tuân thủ huấn quyền của Giáo hội mẹ, mà vị đại diện là Đức Giáo hoàng về các vấn đề tôn giáo. Bạch Diện Thư Sinh Chú Thích:1. Trong bài Diễn Từ Chúc Mừng của Đức Giám mục Giuse Nguyễn Chí Linh ngày 06.5.2010. 2. Cụ Võ Văn Hải chết rũ tù tại Phân trại B, A 20 Xuân Phước vào năm 1983. 3. 14 người được TGM. Ngô Đình Thục phong làm giám mục thuộc các nhóm: giáo phái mới Clemente Dominguez ở Palmar de Troya, Tây Ban Nha; nhóm The Old Catholic Church, và nhóm chủ trương thuyết trống ngôi (sedevacantism: thuyết này cho là hiện ở Vatican trống ngôi vì những vị giáo hoàng sau Đức Giáo hoàng Piô XII chỉ là ngụy giáo hoàng ). (Wikipedia và Từ điển Bách khoa QUID 2000). 4. Ngày 17.9.1976, TGM Ngô Đình Thục tỏ lòng hối cải và được Đức Giáo hoàng Paul VI giải vạ. Nhưng sau đó TGM Thục tái phạm cho nên lại mắc vạ tuyệt thông. Năm 1984, TGM Thục được nhiều người thương giúp, nhất là Chi dòng Đồng Công Missouri. Ngài qua đời đêm ngày 13.12.1984 và được an táng tại Nghĩa trang Resurrection Cemetery, thành phố Carthage, Missouri bên cạnh các linh mục đã qua đời khác như: Lm. Cao Văn Luận, Lm. Lê Văn Lý, Lm. Nguyễn Phương, v.v.. Gs. Đỗ Hữu Nghiêm thuật lại như sau: ‘Đến năm 1984, nhờ sự khuyên bảo của nhiều người, nhờ sự cầu nguyện của cá nhân và các Hội Đoàn Công Giáo Tiến Hành, đặc biệt là do sự thu xếp của linh mục Trần Văn Điển, nghỉ hưu tại Dòng Đồng Công ở Carthage, Missouri, Đức TGM Ngô Đình Thục đã ăn năn thống hồi trở về với Giáo Hội, nên Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tha vạ tuyệt thông cho ngài. Dịp Tết Giáp Tý, ngày 25/2/1984, TGM Ngô Đình Thục đã đáp máy bay về Dòng Đồng Công ở Missouri, chấm dứt một giai đoạn 8 năm (1976-1984) ly khai với Giáo Hội. Ngày Thánh Mẫu tháng 8 năm 1984 [18], với tư cách là vị TGM được Tòa Thánh giải vạ tuyệt thông, để mở đầu thánh lễ và có lẽ cũng là lời nói cuối cùng trước tập thể linh mục và giáo dân Việt Nam hải ngoại, TGM Ngô Đình Thục đã xúc động thú nhận: “Từ 20 năm này, tôi chưa hề thấy người Việt đông như thế nây. May Mẹ đưa tôi về đây gặp anh chi em lần sau hết [150]. Xin phú thác anh chị em và cũng là đại diện cho dân Việt Nam trong Thánh Tâm Mẹ. Xin cầu nguyện cho tôi được chết lành.” (Đỗ Hữu Nghiêm. Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục. Dunglac.org). 5. – Theo tài liệu Bộ Ngoại giao Hoa Kì: Telegram from the Department of State to the Embassy in Vietnam. Washington, August 31,1963. 10:48 P.M.: ‘…Also would you think it useful if we tried to get Vatican to summon Archbishop Thuc to Rome for lengthy consultations?’ (Foreign Relations of the United States (FRUS), 1961-1963, volume IV. Page 76). (Ông Đại sứ có nghĩ nếu như chúng ta cố gắng yêu cầu Vatican triệu Tổng giám mục Thục sang Roma để tham khảo dài hạn là hữu ích không?). Telegram from the Embassy in Vietnam to the Department of State. Saigon, September 01, 1963. &:00P.M.: ‘I do not,however, exclude the possibility that an improved situation can be created if Madame Nhu and Archbishop Thuc could leave the country…’ (ibid. page 80) (Đai sứ Cabot Lodge gửi điện về Bộ ngoại giao: ‘Tôi không loại bỏ khả năng tình hình sẽ được cải thiện nếu Bà Nhu và Tổng giám mục Thục rời khỏi đất nước). 6. ‘In Vatican City, 10,000 people crowded the Basilica of St. John Lateran where Francis Cardinal Spellman of New York celebrated a Roman Catholic mass. Attending were most of the 2,200 cardinals, archbishops, and bishops attending the Ecumenical Council, President Antonio Segni, and other Italian government officials’. (Reaction to the assassination of John F. Kennedy. theblackvault.com) 7. (Dec. 20, 196), ‘ The president then visited U.S. combat troops in Cam Ranh, South Vietnam, and told them that the enemy "knows that he has met his master in the field." Next, Johnson flew to Rome and met with Pope Paul VI for over an hour with only interpreters present. A Vatican statement said the Pope advanced proposals toward attaining peace in Vietnam during the meeting’. (history.com Vietnam war). 8. ‘...On December 23rd LBJ visited Pakistan President Ayub Khan at the Karachi Airport before flying on to Rome Italy. After a brief visit with Italian President Giuseppe Saragat, LBJ and his presidential party made a short helicopter flight to the Vatican. LBJ personally meet with Pope Paul VI soliciting his help toward obtaining peace. LBJ wanted the Pope's help regarding treatment of US prisoners-of-war held in North Vietnam and sought the Pope's influence in getting South Vietnamese (Catholic) Premier Nguyen Van Thieu to the peace table’. (‘First Presidential ‘Air Force one’ Round-The-World Flight’. wingnet.org). 9. ‘Thông cáo Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (1966) Họp tại Saigon, từ 30-9 đến 6-10 năm 1966 Đức Giáo Hoàng luôn luôn tha thiết đến tình trạng đau thương của dân tộc Việt Nam đang quằn quại trong đau khổ vì chiến tranh. Ngài đã không bỏ qua một cơ hội nào hay một phương tiện nào có thể, để tìm giải pháp đem lại Hòa bình cho thế giới và riêng cho nước Việt Nam thân yêu của chúng ta, ngõ hầu tránh những điêu tàn khốc hại. Tháng này năm ngoái, tại Liên Hiệp Quốc, Ngài đã kêu gọi chấm dứt chiến tranh và mọi mầm mống của nó. Cả thế giới đều xúc động về lời kêu gọi chân thành này. Mới đây, trong Thông điệp về kinh Môi Khôi (Christi Matris Rosarii 15-9-66) Ngài nhân danh Thiên Chúa, lớn tiếng "kêu gào các nhà lãnh đạo các dân tộc hãy cố gắng tìm cách dập tắt ngọn lửa chiến tranh và tận diệt nó". Ngài nói: "Các nhà lãnh đạo đang cầm vận mạng của nhân loại, hãy nhớ rằng mình mang trách nhiệm rất nặng nề đối với lương tâm". Chúng tôi, hàng Giáo phẩm Việt Nam, họp tại Saigon dưới quyền chủ tọa của Đức Đặc Sứ Tòa Thánh, là Đức Tổng Giám mục SERGIO PIGNEDOLI, hoàn toàn hợp ý với Đức Giáo Hoàng, lập lại lời kêu gọi thiết tha: "Nhân danh Thiên Chúa, xin hãy dừng lại! Hãy gặp nhau, hãy đi đến bàn hội nghị, hãy thành thật thương thuyết. Chính ngay bây giờ hãy giải quyết các mối bất hòa tranh chấp, dầu phải chịu chút ít thiệt thòi, vì thế nào rồi cũng phải hòa giải, nhưng có lẽ với nhiều tai hại tàn khốc khủng khiếp mà hiện nay không ai lường được". "Tuy nhiên muốn tái lập Hòa bình, thì Hòa bình ấy phải căn cứ trên công lý và tự do, phải tôn trọng quyền lợi cá nhân cũng như của đoàn thể, chẳng vậy Hòa bình sẽ không vững chắc và lâu dài". Bởi vậy chúng tôi kêu gọi hết thảy mọi người thành tâm thiện chí hãy cùng chúng tôi nỗ lực đạt tới mục tiêu cao cả ấy. Phần chúng tôi, cương quyết đem hết khả năng và thiện chí đáp ứng lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng…’(6) Ở đây chúng tôi hân hoan ca ngợi tinh thần hy sinh của bao linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân đang sống trung thành với Đức Tin chu toàn nhiệm vụ tông đồ cách can trường dù ở nơi xa xôi nguy hiểm. Chúng tôi nêu những gương cao cả ấy, để nhắc nhở mọi người cần phải tận tụy hy sinh, thi hành kỷ luật và hợp nhất tinh thần, thì mới trông hoạt động hữu hiệu cho Hòa bình. Với tình âu yếm đặc biệt, chúng tôi nhớ đến những người bạc phước: nạn nhân chiến tranh và thiên tai, những gia đình tan nát đang lâm vào cảnh bất an đói khổ, những cô nhi quả phụ; xin mọi người biết rằng: chúng tôi thành thật cảm thông và cố gắng xoa dịu những nỗi đau thương khốn khổ ấy; cũng xin nhớ rằng: những đau khổ mà ta lãnh nhận với tinh thần nhẫn nại, không phải là vô ích, trái lại là một hy sinh cao cả mà ta có thể dâng lên Thiên Chúa đâ xin Người ban Hòa bình cho Tổ quốc. Những người được hưởng an ninh no ấm, nhất là những người đang sống đầy đủ tiện nghi, phải nhớ mình được của Chúa ban là để chia sẻ với người xấu số vì đời sống quá chênh lệch trong xã hội là mầm mống sinh bất hòa. Chúng tôi đặc biệt gởi đến các tôn giáo bạn lời chào thân ái. Tất cả là anh em một nhà, chúng tôi kính trọng mọi người và sẵn sàng đối thoại trong tình huynh đệ. Chúng tôi nhận định rằng: chỉ có tình đoàn kết và tôn trọng lẫn nhau mới có thể đắc lực phục vụ quốc gia và xây dựng một xã hội tươi đẹp hơn. Với anh chị em giáo dân, chúng tôi ân cần nhắc nhở các điểm sau đây: 1.- Nhận thấy rằng giáo dân sốt sắng chịu khó lại sẵn sàng hy sinh, song còn một số giữ đạo theo tình cảm hơn lý trí, nặng về hình thức hơn tinh thần, vì đó dễ bị lệch lạc trong phán đoán, dễ nông nổi trong hành vi, nhất là trong tình thế khó khăn hiện tại. Chúng tôi cũng nhận thấy rằng: luân lý ngày một suy đồi, nhiều kẻ khinh thường đức khiết tịnh, lỗi phạm luật công bằng, chạy theo đời sống xa hoa và tiền bạc; như vậy là đi ngược với tinh thần Phúc âm và trái với luân lý cổ truyền của dân tộc. Vậy anh chị em giáo dân hãy cảnh tỉnh, chăm lo học hỏi giáo lý và văn kiện Công đồng, nhất là năng suy gẫm Phúc âm: nuôi dưỡng Đức Tin để sống Đức Tin hầu thực hiện công bằng bác ái trong đời sống cá nhân, gia đình, xã hội, như vậy mới mong đem lại Hòa bình cho đất nước. 2.- Đã đến lúc người công giáo phải ý thức sâu rộng phận vụ của mình trong Giáo hội, như là thành phần của Nhiệm thể phải sẵn sàng đâ nhận lãnh trách nhiệm trong các lĩnh vực thuộc phạm vi giáo dân. Người công giáo hãy mạnh dạn dấn thân vào đời, hòa mình với mọi người trên mọi lãnh vực, để góp sức xây dựng một xã hội thịnh vượng công bằng và nhân ái. 3.- Là công dân trong một nước, người công giáo hãy can đảm nhận lãnh trách nhiệm trong mọi lãnh vực xã hội, kinh tế, văn hóa, chính trị, nghề nghiệp, quyết tâm thực hiện công bằng bác ái. Trong mọi hoạt động, người công giáo phải nhằm ích lợi chung của dân tộc tạo nên hòa khí, tránh mọi va chạm chia rẽ: thà thiệt mà mình thêm bạn hơn lợi mình mà thêm thù. Trên lãnh vực thuần túy chính trị, người công giáo hãy bày tỏ lập trường và kiến tạo một đường lối khả dĩ đem lại hạnh phúc cho toàn dân. Chính trị chấp nhận đảng phái, nhưng người công giáo nên hòa mình vào các đảng phái có tôn chỉ và hành động không trái Phúc âm. Để giáo dân hiểu biết thêm nhiều về chính trị, chúng tôi khuyến khích các người có khả năng và thiện chí cộng tác với nhau để tổ chức những khóa hội thảo, học tập về nhiệm vụ và quyền lợi công dân, nhờ đó mọi người có dịp bày tỏ lập trường, trao đổi ý kiến, và mở rộng tầm hiểu biết chính trị. 4.- Với thanh niên, chúng tôi hân hoan đặt nhiều hy vọng nơi các bạn. Đang tuổi đầy nhiệt huyết, các bạn say mê lý tưởng; vậy thần tượng nào hơn Chúa Giêsu, lý tưởng nào hơn Phúc âm của Ngài? Chỉ có thần tượng và lý tưởng ấy đáng cho các bạn say mê và phục vụ. Các bạn hãy tin chắc rằng chỉ trên nền tảng kiên cố đó các bạn mới có thể xây dựng một xã hội tươi đẹp và sáng lạn hơn. Các bạn đừng bao giờ sờn lòng nản chí vì thời buổi khó khăn, trái lại hãy lấy đó làm cơ hội để vươn mình lên, đừng bao giờ chấp nhận sự giả dối ích kỷ, hãy có cao vọng trở nên người tài đức anh hùng, hãy trọng thành tín và danh dự, như thế ngay từ bây giờ các bạn là người xây dựng tương lai. Nhưng các bạn đừng quên lời Thánh Vịnh: Nếu không Chúa giúp, ta luống công xây dựng (cf. Ps. 126). Anh chị em thân mến, chúng ta hãy hăng hái đóng góp vào việc xây dựng Hòa bình, như vậy chúng ta sẽ là những chứng nhân đích thực của tình yêu Thiên Chúa và nhân loại. Sau cùng chúng tôi thiết tha kêu gọi anh chị em hãy sốt sắng cầu nguyện và can đảm hy sinh, theo lời Đức Thánh Cha mời gọi, vì chỉ có Chúa mới phù trợ được chúng ta. Saigon, Lễ thánh Môi Khôi, 7-10-1966 Hội Đồng Giám Mục Việt Nam + Sergio Pignedoli, Đặc sứ Đức Thánh Cha. 10. Nguyễn Thái Hợp. Tham luận tọa đàm về: ‘Công giáo với Dân tộc: Xưa và Nay’ do Viện Nghiên cứu các Tôn giáo tổ chức tại Hà nội tháng 2.2006. 11. ‘Năm 1968, hưởng ứng lời kêu gọi của đức Phaolô VI nhân dịp khai mạc ngày “Quốc Tế Hòa Bình” lần I, Thông cáo ngày 5 tháng giêng 1968 của HĐGMVN nói rõ: “Chúng tôi khẩn thiết kêu gọi đến thiện chí của Chính quyền hai miền Nam và Bắc, hãy cùng nhau kiến tạo Hòa Bình. Nhân danh Thiên Chúa, xin hãy dừng lại! Hãy gặp nhau, hãy đi đến bàn hội nghị, hãy thành thật thương thuyết”. Và Thông cáo còn trích dẫn một lời kêu gọi đặc biệt mà đức Giáo Chủ đã đọc ngày 2-5-1967: “Phải chấm dứt các cuộc oanh tạc trên lãnh thổ Bắc Việt và đồng thời cũng phải chấm dứt những cuộc xâm nhập vũ khí và vật liệu chiến tranh vào miền Nam”. (P. Nguyễn Thái Hợp, O.P. Tương Quan Phức Tạp Giữa Công Giáo Với Nhà Nước Việt Nam. Dunglac.org. 12. - ‘Riêng đối với Việt Nam, Đức Phao lô VI đã gọi là một "ngày đáng ghi nhớ" lúc ông Xuân Thủy, đại diện Chính phủ đầu tiên của Việt Nam đến Vatican ngày 14.2.1973. Ba tháng sau, Đức Phaolô VI tiếp kiến ông Nguyễn văn Hiếu, trưởng phái đoàn của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Chủ nghĩa Xã hội Việt Nam ở Hội nghị La Celle-Saint-Cloud. Trước đó vào tháng 2.1971, Vatican đã tiếp bà Nguyễn thị Bình, Bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ Cách mạng Lâm thời và là trưởng phái đoàn của Chính phủ này tại Hội nghị Paris. Đức Phaolô VI chỉ nói cách khiêm tốn về "một cuộc dấn thân theo sức chúng ta" để vãn hồi hoà bình chính đáng và lâu dài, bảo đảm cho con người được sống trong tự do hạnh phúc xứng với mọi dân tộc’. (Hồng y Nguyễn Văn Thuận. Những Người Lữ Hành Trên Đường Hy Vọng. # 27 Canh Tân. Dunglac.org) - ‘Nguyễn Thị Bình nêu ra một thắng lợi khác: Vì có sự phản đối Tòa thánh Vatican tiếp TT Nguyễn Văn Thiệu nên ngày 12.5.1973, Giáo hoàng Paul VI nhận tiếp Quốc Vụ Khanh Nguyễn Văn Hiếu. Bản đề nghị 6 điểm của Chính phủ lâm thời GPMN về Hội nghị hiệp thương La Celle- Saint Cloud được trao cho Ðức Giáo hoàng. (HU, trang 128)’. (Ts. Lâm Lễ Trinh. Hồi Ức Nguyễn Thị Bình. Phanchautrinhdanang.com) - ‘Nguyễn Thị Bình was received by a prelate in Rome in 1971’. Nguyễn Hồng Dương. The Relationship between the State of Việt Nam and the Roman Catholic Church at the present. Religious Studies Review. Volume I, no.4- December,2007. ‘KẾ HOẠCH LIỄU CHÂU: THAM VỌNG CỦA ĐẢNG LĐ Hội nghị Genève về Đông Dương với 9 phái đoàn là Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Liên Xô, CHNDTH, và bốn chính phủ liên hệ ở Đông Dương là QGVN, VNDCCH (VM), Lào, Cambodge (Cambodia), bắt đầu ngày 8-5-1954, một ngày sau khi kết thúc trận Điện Biên Phủ. Hội nghị Genève kéo dài cho đến ngày 21-7-1954, có thể chia thành hai giai đoạn: Giai đoạn thứ nhứt từ ngày khai mạc đến 20-6-1954. Giai đoạn thứ hai từ ngày 10-7-1954 đến 21-7-1954. Giữa hai giai đoạn nầy, trong khoảng thời gian 20 ngày tạm nghỉ để các phái đoàn về nước tham khảo và nghỉ ngơi, xảy ra ba sự kiện quan trọng: 1) Tại Pháp, Mendès France chính thức nhận chức thủ tướng ngày 21-6-1954. Ông hứa hẹn với dân chúng Pháp sẽ giải quyết vấn đề Đông Dương trong vòng bốn tuần lễ và sẽ ký kết hiệp ước chậm nhất vào ngày 20-7-1954, nghĩa là Pháp dứt khoát rời bỏ Việt Nam. 2) Tại Việt Nam, Ngô Đình Diệm chính thức cầm đầu chính phủ QGVN ngày 7-7-1954 (ngày Song thất). 3) Trong thời gian nghỉ họp, Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Quốc và là trưởng phái đoàn Trung Quốc tại Genève, về nước và mời Hồ Chí Minh bí mật hội họp tại thị trấn Liễu Châu (Liuzhou), thuộc tỉnh Quảng Tây (Kwangsi hay Guangxi), từ 3 đến 5-7-1954. Lúc đó, dư luận thế giới hoàn toàn không biết đến hội nghị nầy. Nội dung hội nghị nầy không được VNDCCH tiết lộ, mà chỉ được phía Trung Quốc tiết lộ sau năm 1975. Về phía phái đoàn VM, Võ Nguyên Giáp, tháp tùng theo Hồ Chí Minh, đã trình bày trong cuộc họp rằng nếu phải rút ra Bắc, thì VM chỉ rút những người làm công tác chính trị bị lộ diện; phần còn lại thì ở lại để chờ đợi thời cơ nổi dậy, có thể từ 5,000 đến 10,000 người. Trong số những người cộng sản gài lại ở miền Nam Việt Nam, có cả Lê Duẫn, bí thư Trung ương cục miền Nam của đảng LĐVN. Như thế, rõ ràng đảng LĐ đã sắp đặt kế hoạch trường kỳ mai phục, chuẩn bị lực lượng tấn công miền Nam Việt Nam, trước khi ký kết hiệp định Genève vào ngày 20-7-1954. Vì vậy, đảng LĐ sẵn sàng chà đạp hiệp định Genève để thực hiện chủ trưong của đảng LĐ, xâm chiếm miền Nam Việt Nam. Muốn tiến đánh miền Nam Việt Nam, cộng sản Bắc Việt rất cần viện trợ Quốc tế cộng sản (QTCS), nhất là Liên Xô và Trung Quốc. Khi Trung Quốc đưa ra tuyên bố về lãnh hải ngày 4-9-1958, theo đó ranh giới biển của Trung Quốc là 12 hải lý từ bờ biển, thì ngay sau đó, để lấy lòng Trung Quốc, Phạm Văn Đồng, thủ tướng Bắc Việt, vội vàng viết quốc thư đề ngày 14-9-1958, gởi Chu Ân Lai, thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc, nhìn nhận tuyên bố của Trung Quốc. 3. QUYẾT ĐỊNH TẤN CÔNG MIỀN NAM VIỆT NAM Sau cuộc CCRĐ giai đoạn 5, Trường Chinh phải rời chức tổng bí thư đảng LĐ, và Hồ Chí Minh kiêm nhiệm chức nầy kể từ 30-10-1956. Đảng LĐ chuyển công tác Lê Duẫn, từ bí thư Xứ uỷ Nam Bộ ra Bắc giữ chức Uỷ viên thường vụ Bộ chính trị để phụ tá cho Hồ Chí Minh khoảng đầu năm 1957. Vào năm 1958, Lê Duẫn được bí mật gởi vào miền Nam nhằm nghiên cứu tình hình. Khi trở ra Bắc vào cuối năm nầy, Lê Duẩn viết bản báo cáo đề nghị đánh chiếm miền Nam bằng võ lực. Bản báo cáo của Lê Duẫn là nền tảng của quyết định quan trọng của hội nghị Trung ương đảng (TƯĐ) LĐ lần thứ 15 ở Hà Nội. Cùng ngày đưa ra nghị quyết thống nhất đất nước, chiếm miền Nam bằng võ lực (13-5-1959), nhà cầm quyền Hà Nội cử thượng tá Võ Bẩm, người Quảng Ngãi, lên đường vào Nam, lập đường dây liên lạc với các lực lượng gài lại trong Nam. Sau đó, ngày 1-6-1959, một toán gồm 32 cán bộ miền Nam tập kết, bắt đầu ra đi mở đường vào Nam. Đó là con đường Trường Sơn, là dãy núi được xem là sống lưng của toàn cõi Đông Dương, để đưa quân xâm nhập Nam Việt Nam. Vào năm sau, tại Hà Nội, từ ngày 5-9 đến ngày 10-9-1960, diễn ra Đại hội đảng LĐ lần thứ III, được mệnh danh là “Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà”. Đại hội đưa ra hai mục tiêu lớn của đảng LĐ là xây dựng miền Bắc tiến lên Xã hội chủ nghĩa và tiến chiếm miền Nam bằng võ lực. Cuối Đại hội nầy, Hồ Chí Minh được bầu làm chủ tịch đảng LĐ, Lê Duẫn làm bí thư thứ nhất (chứ không phải tổng bí thư) thay Trường Chinh (vì những sai lầm trong cuộc CCRĐ.) Bộ chính trị gồm 11 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết. Điểm chót của việc chuẩn bị trong cuộc tấn công miền Nam là việc công bố thành lập Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam ngày 12-12-1960 tại Hà Nội. Mặt trận nầy chính thức ra mắt vào ngày 20-12-1960 tại chiến khu Dương Minh Châu ở Tây Ninh, Nam Việt Nam. KẾT LUẬN Như thế, rõ ràng nguyên nhân gây ra cuộc chiến năm 1960-1975 không phải vì QGVN và sau đó VNCH không tôn trọng hiệp định Genève (20-7-1954). Quốc Gia Việt Nam đã thi hành đúng đắn việc tập trung và rút quân về miền Nam, thực hiện kế hoạch chia hai Việt Nam ở sông Bến Hải ngang qua vĩ tuyến 17. Bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương” ngày 21-7-1954 trong đó có điều 7 là điều đề nghị một cuộc tổng tuyển cứ giữa hai miền Nam và Bắc Việt Nam, không có chữ ký của bất cứ phái đoàn nào, nên không có tính cách pháp lý để cưỡng hành. Chuyện “giải phóng miền Nam” hay “chống Mỹ cứu nước” chỉ là chiêu bài nhằm khích động quần chúng, vì Bắc Việt dư biết trước đó Hoa Kỳ đã giúp Tây Đức, Nhật Bản, Nam Triều Tiên, mà người Mỹ không hề xâm lăng các nước nầy. Chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” còn được sử dụng nhắm mục đích kêu gọi viện trợ của Liên Xô và Trung Quốc, vì theo đúng đường lối của CSQT. 14. Nguyên do cuộc chiến theo một sử gia Hoa Kì: ‘Huyền thoại thứ hai mà tôi muốn nói sơ qua là Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến "phi lý" tiến hành không lý do chính đáng. Nhiều người Mỹ thành thật tin rằng chúng ta lâm chiến tại Đông Dương do hiểu lầm về vụ đụng độ ở Vịnh Bắc Bộ vào đầu tháng Tám năm 1964. Thật ra, như tôi có trình bày trong luận án đạt giải danh dự năm 1966 và trong cuốn sách "Cộng sản Việt Nam" xuất bản năm 1975, đảng Lao động của Cộng sản Việt Nam đã quyết định từ Tháng Năm năm 1959 là mở ra đường mòn Hồ Chí Minh và gửi vào Nam nhiều ngàn lính và vô số chiến cụ với mục đích lật đổ chính phủ trong Nam. Sau khi chiến tranh kết thúc, Hà Nội đã nhiều lần xác nhận sự thực đó. Nói cho đơn giản thì Hoa Kỳ tham chiến để giúp người dân miền Nam tự vệ vì cùng một lý do như việc chúng ta tham chiến tại Cao Ly năm 1950: nhằm bảo vệ tự do của con người và thực thi việc chống xâm lược đã được ghi trong Hiến chương Liên hiệp quốc. Chuyện ấy cũng hoàn toàn phù hợp với những lý do khiến chúng ta chiến đấu trong hai cuộc Thế chiến. Tôi không có thời giờ khai triển luận điểm pháp lý này nhưng cho rằng việc ngăn chặn cộng sản tại Đông Dương cũng quan trọng như việc chống xâm lược trong các cuộc chiến khác, và nếu chúng ta không thể đương cự vào năm 1964 thì Hoa Kỳ đã thua cuộc Chiến Tranh Lạnh. Hậu Quả Của Việc Hoa Kỳ Bỏ Rơi Đông Dương’. (Trích Bài diễn văn của Giáo sư Robert F. Turner, Trung tâm An ninh Luật pháp Quốc gia, Đại học Luật khoa Virginia, Apr 30, 2010). 15. Hồi Ức Nguyễn Thị Bình nhan đề: Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng, Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Tại Hội Nghị Paris Về Việt Nam. Viết chung với nhiều tác giả. Dầy 700 trang. Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia Hà Nội. 16. ‘Trying to improve the condition of Christians behind the Iron Curtain, Paul engaged in dialogue with Communist authorities at several levels, receiving Foreign Minister Andrei Gromyko and USSR President Nikolai Podgorny in 1966 and 1967 in the Vatican. The situation of the Church in Poland, Hungary, Romania, improved during his pontificate’. (Pope Paul VI. Wikipedia.0rg)
|