ĐHY Nguyễn Văn Thuận: Con người của Hy vọng |
Tác Giả: Đoàn Xuân Lộc | |||||||
Thứ Bảy, 23 Tháng 10 Năm 2010 05:00 | |||||||
Đức hồng y Thuận qua đời ngày 16.09.2002. Khi hay tin Ngài mất, Đức Cha Giampaolo Crepaldi, Tổng Thư ký Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, đã tuyên bố với báo chí: “Một vị Thánh vừa qua đời”. Hôm nay (22.10.2010), Giáo phận Roma đã chính thức mở án điều tra phong chân phước cho Đức hồng y (ĐHY) Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, nguyên Chủ tịch Hội đồng Tòa thánh Công lý và Hòa bình. Đâu là những yếu tố dẫn đến việc ĐHY Thuận được nhận vinh dự và hồng phúc đó và sớm như vậy? 13 năm tù giam ĐHY Thuận sinh tại Phủ Cam, Huế ngày 17.04.1928. Thân phụ Ngài là ông Nguyễn Văn Ấm và thân mẫu là bà Ngô Đình Thị Hiệp, em ruột của tổng thống Ngô Đình Diệm. Ngài được thụ phong linh mục năm 1953 và sau đó được cử đi du học tại Roma và đậu bằng tiến sỹ tại đó năm 1959. Năm 1967 – khi mới 39 tuổi, Ngài được chọn làm Giám mục Giáo phận Nha Trang. Tám năm sau, vào ngày 24.04.1975, Ngài được bổ nhiệm làm Tổng Giám mục phó Tổng Giáo phận Sàigòn với quyền kế vị. Nhưng rồi thay vì vào Sàigòn để nhận nhiệm sở mới Ngài bị bắt, và cũng từ đó bắt đầu một ‘cuộc hành trình gian khổ’ với 13 năm tù giam, tại nhiều trại giam khác nhau, trong đó có chín năm biệt lập, mà không một bản án, không một lần xét xử. Nhưng cũng chính vì những năm tháng tù đày đó và đặc biệt những gì Ngài cảm nhận và sống trong những ngày lao tù khổ cực ấy, thế giới biết đến Ngài và Giáo hội tôn vinh Ngài. Sống giây phút hiện tại Một trong những đức tính của ĐHY Thuận được nhiều người biết đến đó là Ngài luôn đón nhận và vui sống ‘giây phút hiện tại’, dù đó có thể là những giây phút cô đơn, đau khổ, cùng cực nhất. Theo ‘Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá’, một trong những cuốn sách của Ngài được phát hành rộng rãi, Ngài được mời vào Dinh Độc Lập và bị bắt tại đó chiều 15.08.1975. Tối hôm ấy công an đưa Ngài về lại Nha Trang và bị quản thúc tại làng Cây Vông. Trên đọan đường dài 450 km, Ngài cảm thấy lo lắng, cô đơn, mệt mỏi sau mấy tháng căng thẳng. Đêm đầu tại nơi quản thúc Ngài băn khoăn, thao thức, xót xa, vì phải sống xa đoàn chiên trong lúc họ đang cần Ngài. Nhưng trong lúc cô đơn, dày vò ấy, Ngài đã lấy cho mình một quyết định: “sống phút hiện tại và làm cho nó đầy tình thương”, tuy đó không hoàn toàn là một cảm hứng đột xuất, mà là một xác tín Ngài đã ấp ủ ngay từ lúc còn ở tiểu chủng viện. Biết vậy, nhưng làm thế nào khi ngày đêm có nhân viên an ninh chìm nổi theo dõi? Trong lúc băn khoăn suy nghĩ, một tia sáng đến với Ngài: “Con hãy bắt chước Thánh Phaolô. Khi Ngài ở tù, không hoạt động tông đồ được, Ngài đã viết thư cho các giáo đoàn”. Và cũng từ đó, trong suốt hơn một tháng rưỡi, nhờ những tờ lịch cũ mà một bé trai bảy tuổi mang tới, Ngài đã viết “Sứ điệp từ ngục tù” cho giáo dân. Đó là những suy nghĩ, cảm nhận và kinh nghiệm của Ngài về cuộc sống nói chung và đời sống đức tin nói riêng. Những góp nhặt đó được gói gọn lại trong “Đường Hy Vọng”, một cuốn sách không thể thiếu đối với người Công giáo Việt Nam và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau. Trong cuốn sách đó, Ngài viết: “Con chỉ có một giây phút đẹp nhất: giây phút hiện tại. Sống trong tình yêu Chúa cách trọn vẹn, đời con sẽ tuyệt đẹp nếu kết tinh bằng từng triệu giây phút đẹp nhất”. Chứng nhân của Hy vọng Và nhờ luôn ‘sống giây phút hiện tại’ đó Ngài không chỉ vượt qua những năm tháng tù giam mà còn luôn yêu thương, bao dung, tha thứ, không trách móc hay oán hận ai, ngay cả những người đối xử bất công, đầy đọa và khổ nhục Ngài. Đó cũng là một đức tính khác nữa của ĐHY Thuận. Trong Thánh lễ an táng của ĐHY hôm 20.09.2002, ĐGH Gioan Phaolô II, đã nhắc lại lời nói của ĐHY: “Trong vực thẳm những đau khổ của tôi, tôi không bao giờ ngừng yêu mến tất cả mọi người, tôi không hề loại trừ một ai khỏi tâm hồn tôi”. ĐGH cũng nhắc lại chúc thư tinh thần của ĐHY: “Tôi thanh thản ra đi, và tôi không giữ lòng oán hận nào đối với ai. Tôi dâng tất cả những đau khổ tôi đã trải qua cho Đức Mẹ Vô Nhiễm và Thánh Giuse”. Nhưng có thể nói điều làm cho nhiều người ngưỡng mộ Ngài đó là dù phải sống những năm tháng tù đày khổ cực, đen tối, Ngài luôn lạc quan, hy vọng. Cách đây ba năm, khi chính thức chấp nhận việc mở hồ sơ phong chân phước cho ĐHY, ĐGH Benedict XVI đã nói: “ĐHY Thuận là một con người của Hy Vọng, Ngài sống bằng Hy Vọng, Ngài phổ biến Hy Vọng cho tất cả những ai Ngài gặp. Chính nhờ năng lực thiêng liêng này mà Ngài đã chống lại được tất cả những khó khăn thể lý và luân lý”. “Niềm hy vọng ấy đã nâng đỡ Ngài khi bị cô lập, khi phải xa cách cộng đoàn giáo phận trong 13 năm. Niềm hy vọng đã giúp Ngài nhận thấy trong sự vô lý của các biến cố xảy ra cho mình, có một kế hoạch của Chúa Quan Phòng – ĐHY không hề được xét xử trong thời gian lâu dài bị giam cầm” Vâng, đúng như khẩu hiệu giám mục Ngài chọn ‘Vui Mừng và Hy Vọng’ (Gaudium et Spes) – tên Hiến chế Mục vụ của Công Đồng Vatican II – cuộc sống của Ngài, những sách Ngài viết, những bài chia sẻ của Ngài đều có thể tóm tắt trong hai chữ ‘Hy vọng’. Đó cũng lý do tại sao Ngài được coi là một người của Hy vọng, chứng nhân của Hy vọng. Được Giáo hội tôn vinh Vì những bất công, khổ cực Ngài phải chịu trong lao tù, và trên hết vì những gì Ngài cảm nhận và sống trong năm tháng giam cầm đó, Ngài được thế giới biết đến và Giáo và được Giáo hội tôn vinh. Được thả ngày 23.11.1988, và ba năm sau đó (1991) sang Roma chữa bệnh nhưng bị từ chối trở lại Việt Nam, Ngài buộc phải ở lại Roma. Nhưng hình như một lần nữa ngay trong những vô lý, bất công Đức hồng y phải chịu, Thiên Chúa lại có một chương trình riêng cho Ngài? Đúng vậy, nếu những năm tù giam thanh luyện Ngài, giúp Ngài cảm nhận và sống trọn những giá trị nhân bản và thiêng liêng, thì việc Ngài ‘buộc’ ở lại Roma giúp Ngài làm chứng và phổ biến những giá trị ấy cho thế giới và Giáo hội hoàn vũ. Ngày 09.04.1994, Ngài được bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình. Và bốn năm sau đó, vào ngày 24.06.1998, Ngài được chọn làm Chủ tịch hội đồng này. Từ trước đến giờ chưa một người Việt Nam nào được trao một trọng trách như vậy tại Vatican. Và có thể lâu (hay mãi sau này) Giáo hội Việt Nam lại có một đại diện như vậy tại giáo triều Roma. Vào tuần tĩnh tâm Mùa Chay năm 2000 – Năm Thánh của Giáo hội, Ngài được ĐGH Gioan Phaolô II mời giảng tĩnh tâm cho Ngài và giáo triều Roma. Chủ đề của bài giảng tĩnh tâm là ‘Hy vọng’. Và những gì Ngài chia sẻ trong suốt kỳ tĩnh tâm đó được góp nhặt trong cuốn ‘Chứng nhân Hy vọng’, đã được dịch ra hơn 10 thứ tiếng. Đức hồng y Thuận qua đời ngày 16.09.2002. Khi hay tin Ngài mất, Đức Cha Giampaolo Crepaldi, Tổng Thư ký Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, đã tuyên bố với báo chí: “Một vị Thánh vừa qua đời”. Ba năm sau, đúng vào dịp tưởng nhớ năm năm ngày mất của ĐHY Thuận, Tòa Thánh đã chính thức mở hồ sơ phong chân phước cho Ngài. Và ngày 22.10 này, án điều tra phong chân phước của Ngài được chính thức bắt đầu. Đó không chỉ là tin vui cho Giáo hội Việt Nam mà cho cả Giáo hội toàn cầu cũng như những ai yêu chuộng công lý, hòa bình. Ngoài ra, ĐHY Phanxico Xaviê Nguyễn Văn Thuận cũng được các nước trên thế giới, tổ chức quốc tế khác vinh danh bằng cách trao giải thưởng hay lập các tổ chức, quỹ, giải thưởng mang tên hay nhân danh Ngài.
|