An Nam dị sử chép: “Năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Ánh nhờ sự giúp đỡ của người Pháp, đánh bại nhà Tây Sơn, lên ngôi xưng Hoàng đế hiệu là Gia Long, đổi tên nước là Việt Nam. Bấy giờ An Nam trở nên một nước Việt Nam độc lập. Nhà Nguyễn là triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam. Nhà Nguyễn truyền ngôi cho con cháu đến đời thứ 13 là Hoàng Đế Bảo Đại thì bị họ Hồ cướp ngôi”. Gia Long tại vị chỉ có 17 năm thì băng hà, truyền ngôi cho con là Minh Mạng. Minh Mạng không muốn người Tây phương tràn vào nước và nhất là không thích đạo Thiên chúa nên ra lệnh cấm đạo và tàn sát giáo dân. Chính sách ngược đãi đạo Thiên chúa các đời vua Thiệu Trị, Tự Đức… cho đến Duy Tân, Khải Định vẫn tiếp diễn. Chỉ từ năm 1848 đến năm1880 đã có hàng vạn giáo dân bị tàn sát và lưu đày. Đó chính là nguyên cớ cho thực dân Pháp đem quân vào đánh chiếm nước ta và đặt nền đô hộ lâu dài. Mặc dù các vua quan nhà Nguyễn đã hết sức chống cự để đánh đuổi giặc ra khỏi bờ cõi nhưng trước vũ khí tối tân hùng mạnh của thực dân Pháp, triều đình, quan dân nước An Nam đành chịu để cho giang sơn từ Bắc tới Nam lần hồi lọt vào tay quân Pháp. Pháp đặt nền đô hộ và cai trị nước ta hơn 80 năm kể từ 1858 đến năm 1945. Đáng ghi nhớ nhất là năm 1885, quan quân triều đình nổi dậy tấn công Pháp ở kinh đô Huế nhưng thất bại. Vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết chạỵ ra Tân Sở thuộc Quảng Trị, tại đây Tôn Thất Thuyết mượn danh nghĩa vua Hàm Nghi phát chiếu Cần Vương kêu gọi người Việt nổi dậy đánh Pháp giúp vua. Hưởng ứng lời kêu gọi này, nhiều cuộc nổi dậy đã nổ ra, trong đó tiêu biểu là những cuộc khởi nghĩa ở Ba Đình của Phạm Bành và Đinh Công Tráng, khởi nghĩa Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuật chỉ huy, khởi nghĩa Hương Khê của Phan Đình Phùng và Cao Thắng, khởi nghĩa ở Hưng Hóa do Nguyễn Quang Bích lãnh đạo… Phong trào vẫn tiếp tục phát triển cả sau thời gian vua Hàm Nghi bị Pháp bắt giữ (năm 1888), nó chỉ thực sự chấm dứt khi lãnh đạo cuộc nổi dậy ở Hương Khê là Phan Đình Phùng chết cuối năm 1895. Phong trào Cần Vương thất bại, nhiều đảng phái cách mạng được tổ chức để đánh đuổi người Pháp: - Việt Nam chi bộ của hội Á Tế Á Áp Bức Nhược Tiểu Dân Tộc do Nguyễn Ái Quốc thành lập ở Quảng Đông. - Năm 1926 Tân Việt Cách Mạng Đảng hoạt động ở Hà Tỉnh và Sài Gòn. - Năm 1927, Phạm Tuấn Tài, Hoàng Phạm Trân, Nguyễn Thái Học lập ra Việt Nam Quốc Dân Đảng. - Năm 1928 Tạ Thu Thâu và Nguyễn An Ninh lập Đệ Tứ Quốc tế. - Năm 1930 Nguyễn Ái Quốc kêu gọi các đảng phái kết hợp với nhau lại thành một đảng duy nhất để có sức mạnh to lớn chống Pháp lấy tên là Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội gọi tắt là Việt Minh. * * * Thế chiến thứ 2 bùng nổ, Nhật Bản mang quân vào đánh chiếm Đông Dương Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp. Ngày 15/8/1945 Nhật đầu hàng Đồng Minh, Nguyễn Ái Quốc thừa cơ cướp chính quyền từ tay người Nhật và người Pháp. Ngày 25 tháng 8 năm 1945, Nguyễn Ái Quốc đổi tên thành Hồ Chí Minh buộc vua Bảo Đại phải thoái vị, chính phủ Trần Trọng Kim bị giải tán. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh lập Chính phủ lâm thời tự mình xưng là Chủ tịch, tuyên bố Việt Nam độc lập, đổi tên đảng thành Đông Dương Cộng sản đảng. Bấy giờ Hồ chí Minh mới lộ mặt thật là đảng viên của chủ nghĩa Cộng sản do Tàu và Nga phái về nước chuẩn bị cho bước xích hóa Đông Nam Á. Những nhà ái quốc các đảng phái cách mạng khác lần lượt bị Hồ thủ tiêu để độc quyền lãnh đạo đất nước. Sự kiện Bảo Đại thoái vị chính thức đánh dấu sự chấm dứt của nhà Nguyễn. Nhà Nguyễn tồn tại 143 năm, có 13 vua thuộc 7 thế hệ thì bị diệt vong nhường ngai vàng lại cho nhà Hồ. Hồ lên ngôi Hoàng đế thiết lập chế độ độc đảng, độc tài, còn phong kiến quan liêu hơn thời Gia Long gấp bội. Hồ Chí Minh tên thật là Nguyễn Sinh Cung tự Tất Thành, con ông Nguyễn Sinh Sắc và mẹ là Hoàng thị Loan. Sắc thi đậu Phó bảng được triều đình bổ nhiệm chức Tri huyện Bình Khê tỉnh Bình Định. Sắc uống rượu say đánh một người dân đến chết nên bị bãi chức. Sắc lang thang về miền Nam làm phu cao su sau chết ở Đồng Tháp Mười Về sau, khi công thành danh toại, ở ngôi cao, Nguyễn Tất Thành tức Nguyễn Ái Quốc biết ra mình là họ Hồ, cháu nội của Hồ Sĩ Tạo chứ không phải của Nguyễn Sinh Nhậm, cha của Sinh Sắc. Nhậm chỉ là kẻ đổ vỏ cho người ăn ốc là ông Hồ sĩ Tạo và bà Hà thị Hy, nên từ đó bỏ họ Nguyễn, lấy họ Hồ, đổi tên Tất Thành ra Chí Minh, tức Hồ Chí Minh và dùng tên đó đến cuối đời. Vừa lên ngôi, Hồ cho bọn bồi bút sửa lại sử, kết án Gia Long cõng rắn cắn gà nhà và phủ nhận công lao thống nhất đất nước sau 300 năm chia cắt đất nước và chiến tranh kể từ thời Nam Bắc triều cho đến hết thời Tây Sơn. Nhưng ngay sau đó, Hồ lại cõng giặc Tàu trở vào nhà để rồi đến thế kỷ 21 nước An Nam lại bị Bắc thuộc lần thứ 5. Nước An Nam vừa thoát khỏi ách nô lệ 1000 năm của giặc Tàu, 100 năm đô hộ giặc Pháp, người dân chưa được một ngày ngẫng cao đầu sống trong độc lập tự do, nay lại bị họ Hồ đem ách Tàu về quàng lên cổ nhân dân mình trở lại. Ngay ngày quân Nhật đầu hàng Đồng Minh, 15/8/1945, để tước khí giới Nhật, Hồ phải nhờ đến 20 vạn quân Tàu phù của Tưởng Giới Thạch, trong khi Hồ biết rõ rằng quân Tàu phù này chỉ là thứ ăn báo hại, như lời thuật lại của Nguyễn Lương Bằng. Hồ nói: “Bọn ấy sang thì chả tử tế gì đâu. Chúng sẽ ăn hại, báo hại, đưa phản động về phá ta, làm những điều chướng tai gai mắt.” Miệng thì nói vậy, Hồ vẫn phải cung cấp gạo và tiền cho lính Tưởng Giới Thạch ở miền Bắc suốt môt thời gian dài. Ngoài ra còn phải lo ăn cho lính Pháp, Anh, Nhật, mỗi thứ cũng hơn 6 vạn, khiến cho ngân quĩ nhà nước cạn kiệt, trống rỗng. Mặt dù tuyên bố độc lập, nhưng chính phủ của Hồ không được quốc tế công nhận, nhất là Pháp và Mỹ. Ngày 23/9/1945 Pháp tấn công Sài Gòn. Tối 19/12/1946, Hồ kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến”. Tháng 3/1947 Hồ lại kêu gọi “Tiêu thổ kháng chiến”. Cuộc chiến tranh Đông Dương chấm dứt năm 1954 sau khi Pháp thất trận Điện Biên Phủ. Hồ ký hiệp định Genève với Pháp, chia đôi đất nước, giành quyền thống trị miền Bắc. Suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp đã làm cho nhân dân miền Bắc đói khổ, kiệt quệ nhưng Hồ vẫn khoe khoang là “Trên trường ngoại giao đã thắng to”. Tuy nhiên sự thắng to này không thể bù lại được nỗi mất mát quá lớn của người dân. Sự thực thì Việt Nam không cần thiết phải có cuộc chiến tranh này. Cũng cùng thời gian Pháp trao trả độc lập cho Việt Nam thì các nước bị trị bởi thực dân Pháp, Anh… cũng được trao trả độc lập trong hòa bình, không tốn một giọt máu nào như Ấn Độ, Mã Lai, Nam Dương … Sỡ dĩ họ Hồ phát động chiến tranh lấy danh nghĩa là chống Pháp để lôi kéo nhân dân vào cuộc chiến để họ quên đi chuyện cướp nước soán ngôi nhà Nguyễn, lòng dân chưa quên được triều đình cũ. Vì vậy, họ Hồ vừa đuổi con sói ở cửa trước lại rước con hổ vào cửa sau. Đuổi được Pháp đi lại rước Tàu vào nhà. Sự nô lệ còn tệ hại hơn gấp trăm lần. Trận Điện Biên Phủ thắng được là nhờ ở sự giúp đỡ khổng lồ của Trung Quốc về tài lực, nhân lực, vũ khí nên Hồ phải mang ơn họ Mao rất lớn. Do đó Hồ nhất nhất tuân theo những gì Mao Trạch Đông ra lệnh. Từ đó, nhà Hồ đã bắt đầu manh nha đến bước diệt vong. Nhân dân miền Bắc mới vừa qua 9 năm chiến tranh chết chóc, đói khổ chưa kịp hoàn hồn bây giờ lại bị Hồ phát động chiến dịch “Cải cách ruộng đất” đấu tố giai cấp, triệt hạ “trí phú địa hào”. Cuộc cải cách ruộng đất phát động vào cuối năm 1953 và kéo dài cho tới cuối năm 1957, đã phạm nhiều sai lầm nghiêm trọng, nhất là trong việc lạm dụng đấu tố và xử tử những người bị liệt vào thành phần địa chủ, phú nông thậm chí vu oan và giết nhầm cả những đảng viên trung kiên. Mấy vạn người đã chết oan ức vì bị qui là địa chủ cho đủ chỉ tiêu 5% của Mao đề ra cho mỗi huyện. Từ tháng 2 năm 1956, công cuộc sửa sai được khởi sự, phục hồi được khoảng 70-80% số người bị kết án, trả lại tài sản ruộng đất. Những nhân vật cốt cán của cải cách bị cách chức. Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào và cán bộ nhìn nhận sai lầm, ông khóc và nhận lỗi trước hội nghị toàn quốc. An Nam dị sử chép: “Ngày Bính Thìn, tháng Giáp Thân, năm Ất Dậu (3/8/1945), họ Hồ sau khi cướp ngôi nhà Nguyễn xong, lại cam tâm làm nô lệ cho Trung Quốc Đại Hán như xưa. Các triều đại kế tục đều cúi đầu thần phục theo. Trăm họ lại sống trong cảnh lầm than nhục nhã”. Lúc Hồ còn sống, suốt thời kỳ đất nước chia đôi, miền Bắc nghèo đói nên toàn dân phải sống trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, thiếu thốn. Quanh năm phải ăn độn triền miên. Ngược lại người Hoa lại được ưu đãi. Họ được mua lương thực tương đối đầy đủ và không phải ăn độn. Để tỏ thái độ thần phục hơn nữa, năm 1951, Trường Chinh trong chức vụ Tổng thư ký đảng Lao Động Việt Nam - tức đảng Cộng Sản VN, đã cho tung ra tờ truyền đơn hô hào nhân dân Việt Nam “hãy bỏ chữ Quốc Ngữ để học chữ Tầu, bỏ bệnh viện, nhà bảo sanh và cách chữa bệnh theo Tây phương để theo thuốc Tầu…”. Tờ truyền đơn do Trường Chinh ký được nhật báo Tiếng Dội số 462, năm thứ 3, ngày thứ Sáu tháng 8 năm 1951 in nguyên văn với tựa đề “Việt Minh vận động cho Việt Nam làm chư hầu Trung Quốc” như sau: ỦY BAN HÀNH CHÁNH KHÁNG CHIẾN VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA NĂM THỨ VII TỔNG THƯ KÝ ĐẢNG LAO ĐỘNG VN SỐ: 284/LĐ ĐỘC LẬP TỰ DO HẠNH PHÚC Hỡi đồng bào thân mến! Tại sao lại nhận vào trong nước Việt Nam yêu mến của chúng ta, là một nước biết bao lâu làm chư hầu cho Trung Quốc, cái thứ chữ kỳ quặc của bọn da trắng Tư Bản đem vào! Tại sao ta lại truyền bá trong dân chúng từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, cách viết chữ dị kỳ của tên thực dân Alexandre de Rhodes đã đem qua xứ mình như thế? Không, đồng bào của ta nên loại hẵn cách viết theo lối Âu Tây ấy - một cách viết rõ rang có mau thật đấy – và ta hãy trở về với thứ chữ của ông bà ta ngày trước, là thứ chữ Nho của Trung Quốc. Vả chăng, người Trung Hoa, bạn của ta – mà có lẽ là thầy của chúng ta nữa, ta không hổ thẹn mà nhìn nhận như thế - có phải là dân tộc văn minh trước nhất hoàn cầu không? Còn nói gì đến y khoa của Âu Mỹ: Chúng chỉ cắt, đục,khoét, nạo! Có thế thôi! Hỡi đồng bào yêu mến! Chúng ta hãy gạt bỏ cách chữa bệnh của bọn Đế quốc phương Tây đem qua xứ ta! Ta hãy bỏ nhà bảo sinh của chúng, bỏ bệnh viện của chúng, ta hãy dùng thuốc dán của ông cha ta để lại và nhất là dùng thuốc Tầu danh tiếng khắp hoàn cầu. Ta hãy trở về phương pháp này, trước nữa để ủng hộ các bạn Trung Hoa, sau nữa để loại ra khỏi nước Việt Nam mến yêu của ta bao nhiêu những đồ nhập cảng thực dân như là khoa học, phát minh v.v… Ta hãy quét sạch lũ “trí thức” đã xuất thân ở các trường Âu Mỹ, đế quốc và thực dân. Chúc Tổng phản công” và “Thi hành mọi phương pháp bài trừ thực dân”. Trường Chinh Tổng thư ký đảng Lao Động Tiếp theo, năm 1956 Ngoại trưởng Bắc Việt là Ung văn Khiêm muốn lấy lòng Trung Quốc, tuyên bố rằng “Việt Nam nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Tây Sa và Nam Sa”. Ngày 4 tháng 9 năm 1958 Trung Quốc tái tuyên bố chủ quyền về lãnh hải thì chỉ 10 ngày sau, Hồ Chí Minh ra lệnh cho Thủ tướng Phạm văn Đồng gửi công hàm cho Thủ tướng Trung Quốc là Chu Ân Lai công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Năm 1959 họ Hồ sang Bắc Kinh dự lễ 10 năm cách mạng Trung Quốc, nhân đó xin thêm viện trợ tài lực để phát động chiến tranh lần nữa hầu tiến chiếm miền Nam. Đúng với ý đồ xâm lăng từ trước, cả Bắc Kinh và Mốt Cu đều hứa hẹn sẽ giúp vũ khí và dân sự cho Hồ. Tết Mậu Thân năm 1968, Hồ ra lệnh tấn công bất ngờ toàn lãnh thổ miền Nam với cuồng vọng nuốt chửng mãnh đất phía Nam. Hồ không ngờ bị quân Việt Nam Cộng Hòa đánh cho tan tác. Bộ đội Hồ lớp bị chết, lớp bị thương hơn 5 vạn quân cùng với vô số vũ khí bị tịch thu. Hồ rất kiêu ngạo, không ngờ bị thua một cách cay đắng nên rất uất ức mà sinh ra bệnh, nằm liệt một chỗ. Thời gian này, thật ra là từ khoảng năm 1960, quyền bính của Hồ dần dần lọt vào tay bọn Lê Duẩn và Lê Đức Thọ, bọn này có chủ trương tích cực thống nhất đất nước bằng cách đẩy mạnh chiến tranh ở miền Nam. Hồ chết ngày 2/9/1969. Triều đại nhà Hồ chấm dứt từ đây. Kể từ năm 1945 đến 1969, Hồ cướp ngôi và trị vì vỏn vẹn chỉ có 25 năm. Hồ quả là tội đồ của dân tộc. Hồ đã mang chủ nghĩa Cộng sản phi nhân về áp đặt lên dân tộc mình. Cuối đời, Hồ ăn năn tội lỗi viết di chúc nhiều lần để xin nhân dân tha tội. Những di chúc này bị bọn Lê Duẫn, Trần Hoàn dấu nhẹm và thay vào đó tờ di chúc giả mạo. Lượt trích một trong những tờ di chúc (thật) của Hồ như sau: “ Thời xưa ở bên Trung Quốc người ta thường nói, “ Con chim trước khi chết thì tiếng kêu thương, còn người trước khi chết thì lời nói phải.: Tôi tự xét mình chẳng còn sống bao lâu nữa, nên cố gắng viết di chúc này, mong rằng những điều viết ra không phải là những điều sai quấy. Vừa mới đây, Lê Duẩn có đi với Trần Quốc Hoàn tới gặp tôi, ép buộc tôi phải viết bản di chúc theo ý muốn của họ. Tôi đã viết mà trong bụng vẫn tấm tức vô cùng. Nay tôi viết thêm tờ di chúc này, xin coi là chính thức. Ngoài ra tôi không công nhận bất cứ bản di chúc nào khác. Tôi ước mong một ngày nào đó, bản di chúc tôi viết đây sẽ được mọi người biết tới, thì ở thế giới bên kia tôi mới được thỏa lòng. Tôi vốn con nhà nghèo nhưng từ bé đã nuôi mộng đảo lộn sơn hà, và đem lại vẻ vang cho nòi giống, nên tôi bôn ba hải ngoại bao nhiêu năm không hề quản ngại khó khăn, gian khổ, vào tù ra khám, chỉ mong có ngày tổ quốc ta độc lập, giàu mạnh, dân ta hạnh phúc, tự do. Tôi thường đọc lịch sử nước Việt Nam ta, thấy có ông Trần Thủ Độ là một tay hào kiệt hiếm có trên đời, đã không quản ngại làm việc ác, làm phản mà gây nên cơ nghiệp hiển hách của nhà Trần, đuổi giặc Nguyên, đem lại vinh quang cho cả dân tộc về cả văn minh và đời sống. Không lường sức mình, không đo tài mình, tôi đã hành động như ông Trần Thủ Độ nên đất nước mới tan nát, nhân dân ta mới điêu linh, mà đầu mình thì nặng nề không biết bao nhiêu tội ác, không thể nào tha thứ được. Cái nhầm tai hại nhất của tôi là đi theo Cộng sản Mác Xít mà không biết là chủ nghĩa này chẳng qua chỉ là giả bộ, để đánh lừa giai cấp nghèo mà cướp lấy chính quyền cho nước Nga khi đó. Tôi cũng ngay tình mà dùng những người hợp tác với tôi. Tôi cứ tưởng những người đó quý yêu tôi, đâu ngờ họ đều là mật thám của Nga sô, vây quanh tôi chỉ là để kiểm soát tôi, khéo léo hướng dẫn tôi đi theo con đường Nga đã vạch sẵn. Họ đề cao và tâng bốc tôi để khi nào làm điều gì độc ác thì tôi phải chịu hết trách nhiệm với dân tộc. Nhiều khi họ quyết định mà không hề cho tôi hay biết gì, như vụ cải cách điền địa ở Bắc Bộ chẳng hạn, bây giờ nhân dân có quyền rủa oán trách tôi không biết để đâu cho hết. Dù sao tôi vẫn là người có tội, tôi không dám chối cãi, chỉ dám mong lịch sử sau này xét kỹ cho tôi mà đừng lên án tôi quá nặng nề. … Tôi bị kiểm soát rất khắt khe, không có quyền quyết định điều gì nữa cả. Đáng lý ra tôi có thể bị giết ngay từ hồi đó rồi, nhưng tên tuổi còn được thế giới biết đến, nên họ còn phải lợi dụng mà để tôi sống thêm. Tôi đã già rồi, râu tóc đã bạc mà còn phải sống trong cảnh tù giam lỏng, cứ nghĩ đến điều này làm tôi ứa nước mắt. Họ đã không giết tôi nhưng sai ông Bác sĩ Tôn thất Tùng cho tôi uống thuốc độc để tôi không thể đi đâu được nữa, mà cũng không thể tiếp xúc với những người mà tôi muốn tiếp xúc. Tôi chưa chết ngay, nhưng là chết dần, chết mòn, ở biệt lập một nơi để đợi ngày tắt thở. Thật cũng tiếc, khi về già, biết mình sai lầm, muốn chuộc lỗi mà không được nữa. Ai cũng tưởng tôi là con người vô thần, nhưng riêng Đức cha Lê hữu Từ thì biết tôi rất tin có Đấng Tạo Hóa. Vì tin có ông trời nên tôi xin khẩn cầu cho nước ta và các nước Cộng sản khác trên thế giới sớm thoát ách Cộng sản. Tôi cũng xin ông Trời cho tờ di chúc này có ngày được phổ biến khắp nơi. Cuối cùng, tôi xin lẩy Kiều, dùng hai câu thơ của cụ Nguyễn Du để tỏ lòng hối hận trước cao xanh: Rằng con biết tội đã nhiều Dẫu rằng sấm sét búa rìu cũng cam Hà Nội 14-8-1969 Tên ký: Hồ chí Minh An Nam dị sử chép: “Hồ ít học nhưng tham vọng quá lớn, muốn trong thời gian ngắn đem chủ nghĩa Cộng sản nhuộm đỏ cả miền Nam Việt nam và Đông Nam Á để lập công dâng lên cho Đệ Tam Quốc tế Cộng Sản, do đó Hồ mang đại tội “cõng rắn cắn gà nhà” đem quân Tàu vào nước, đã không giúp gì được cho dân, cho nước mà còn gây ra lắm thảm cảnh đầu rơi máu đổ khiến cho nước nhà phải điêu linh trong cảnh nội chiến, nồi da xáo thịt suốt nửa thế kỷ một cách vô ích với hơn một triệu thanh niên miền Bắc phải phơi xương trắng trên dãi Trường Sơn.” Mặc dù trong một tờ di chúc khác, Hồ mong xác mình được thiêu và đem tro rải trên ba miền đất nước Bắc, Trung, Nam nhưng bọn Duẫn, Thọ, Hoàn đã không theo lời, vẫn cho xây lăng để giữ xác ông lại với mưu đồ lợi dụng danh nghĩa ông để làm tấm bình phong cho chúng tiếp tục độc tài, độc trị, tác yêu tác quái và tham nhũng. Người dân trong nước huyên truyền rằng ông Hồ đã bị trời hành báo ứng. Thuở còn sống làm nhiều việc quá ác đức như giết mẹ nuôi mình là bà Nguyễn thị Năm đầu tiên để phát động chính sách “Cải cách ruộng đất”, giết hàng vạn người dân Huế vô tội để trả thù vụ thua trận Tết Mậu Thân v.v…. Hồ lại là người bất hiếu, vô nghì. Lúc lên ngôi cao không về nhận mồ mả cha mẹ, không nhận anh em dòng họ. Khi hấp hối chết lại mong đi gặp Mác Lê ngoại bang thay vì về với tổ tiên, ông bà… nên thây ma bị phơi khô ở lăng Ba Đình để đền tội. An Nam dị sử chép tiếp: “Các triều đại kế tiếp Hồ vẫn dùng chiêu bài của Hồ gọi là “Tư tưởng Hồ Chí Minh” để làm nhiều điều còn tàn ác, tham lam và hèn mạc hơn Hồ bội phần”. Năm 1975, sau khi đánh cướp được miền Nam, bọn Duẫn, Thọ, Mười, Anh… thi hành chính sách bạo ngược đối với nhân dân miền Nam còn hơn thời bạo chúa nhà Tần thưở xưa. Ngoài việc “đốt sách chôn học trò” để hủy diệt văn hóa, ngôn ngữ miền Nam, bọn chúng còn dùng thủ đoạn “đánh tư sản”, “cải tạo công thương nghiệp” để cướp tài sản của cải. Đuổi dân thành thị lên vùng “kinh tế mới” để cướp nhà, đất, ruộng vườn…của họ. Hàng triệu quân, cán chính miền Nam bị chúng lừa vào hàng ngàn trại tù từ Nam chí Bắc để đọa đày thân xác cho đến chết mà chúng gọi là đi “cải tạo”. Tuy nhiên với bản chất tráo trở, tập đoàn cộng sản Việt Nam đã quay mặt lại với công ơn trời biển của Trung Quốc, đã giúp cho chúng chiến thắng tại Điện Biên Phủ và tiến chiếm miền Nam, để chạy theo Liên Xô, đã bị Đặng Tiểu Bình cho là quân vô ơn bạc nghĩa, xua hàng chục vạn quân sang biên giới ngày 17/2/1979 để “dạy cho một bài học”. Lại một lần nữa, nhân dân Việt Nam lại đổ xương máu một cách oan nghiệt vô ích vì tập đoàn ngu xuẩn, tham lam, tàn ác này. Bài học chỉ kéo dài trong một tháng mà hơn sáu vạn thanh niên Việt Nam đã phải phơi xương trắng trên đường biên giới Trung Việt. Tài sản nhân dân 6 tỉnh biên giới bị phá tan hoang, phụ nữ bị hãm hiếp, trẻ con bị chặt bằng dao, bằng búa. Một bài học vô cùng đắt giá. Đảng cộng sản Việt Nam run sợ trước “bài học” này, nên cả bọn Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ văn Kiệt lại kéo nhau sang Tầu để khấu đầu xin thần phục trở lại như trước. An Nam dị sử chép: “Bọn lãnh chúa độc tài, độc trị đảng cộng Sản Việt Nam rất hèn nhát với Trung Quốc, suốt 30 năm sau, cả lính và dân bị hy sinh đều không được một lời nhắc nhở, không được kỷ niệm cho đỡ tủi vong linh. Trong lúc ấy thì Tết năm nào cũng tổ chức ăn mừng biến cố Mậu Thân. Kỷ niệm 40 năm, tổ chức lại càng rất linh đình. Bọn mãi quốc cầu vinh thì luôn khiếp nhược, hèn nhát và không biết nhục.” Tháng 11 năm 2007, Trung Quốc lớn tiếng tuyên bố thành lập Huyện Tam Sa sáp nhập hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào lãnh thổ của mình. Học sinh, sinh viên, trí thức Việt Nam phẩn nộ kéo nhau đến trước Toà Đại sứ Trung Cộng để phản đối. Tập đoàn Cộng sản Việt Nam đã không dám hó hé lên tiếng phản đối mà còn ra sức đánh dẹp bắt bớ, giải tán đám sinh viên biểu tình để làm đẹp lòng ông chủ Đại Hán. Ngày 31 tháng 12 năm 2008, Trung Quốc lại bắt buộc Việt Nam phải hoàn tất việc cắm mốc biên giới Trung Việt. Thủ tướng cộng sản VN Nguyễn Tấn Dũng run sợ đành phải ký nhượng đất ải Nam Quan và thác Bản Giốc cho Tầu. An Nam dị sử lại chép: “Kể từ ngày Hồ Chí Minh cướp ngôi nhà Nguyễn đến nay, trong vòng hơn 50 năm, giang sơn tổ quốc Việt Nam đã bị bọn mãi quốc cầu vinh của hậu duệ Hồ đem đi hiến dâng, bán cho Tầu càng lúc càng nhiều. Hết đất liền biên giới phía Bắc đến hải đảo ngoài khơi phía Đông. Trong tương lai gần, giặc Bắc Kinh cũng tìm cách lấy thêm đất Tây Nguyên phía Tây nữa là kế hoạch thôn tính Việt Nam để Bắc thuộc lần thứ năm hoàn tất mộng xâm lăng”. Quả đúng như lời tiên đoán, ngày 5 tháng 1 năm 2009, đại tướng Võ Nguyên Giáp, đại công thần tiền triều nhà Hồ, bị bọn Duẫn, Thọ tước quyền sau trận Điện Biên Phủ, đã 99 tuổi, dâng sớ tấu lên Tể tướng Dũng can ngăn việc nhượng đất Tây Nguyên cho Tầu với lý do là khai thác khoáng sản quặng bô xít. Tấu sớ có đoạn viết “Việc xác định một chiến lược phát triển Tây Nguyên bền vững là vấn đề rất hệ trọng đối với cả nước về kinh tế, văn hóa và an ninh quốc phòng”. Tể tướng Dũng không đếm xỉa gì đến lời can ngăn của Giáp vẫn cứ cho phép Trung Quốc tiến hành dự án và tuyên bố rằng “vấn đề khai thác bô xít tại Tây Nguyên là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước”. Mặc cho nhiều nhà khoa học, ngoài tướng Giáp, cũng như người dân vùng Tây Nguyên đã lên tiếng phản đối việc khai thác bô xít ở Tây Nguyên. Những điều hại nhiều, lợi ít được trưng dẫn để cảnh báo quyết định sai lầm của đảng cộng sản Việt Nam nhưng đảng vẫn cứ nhắm mắt bưng tai vì “vấn đề đã quyết rồi thì khó thay đổi quyết định”. Vấn đề khai thác bô xít ở Tây Nguyên ai đã quyết định? Tiến trình quyết định ấy diễn ra như thế nào? Ngày 25 tháng 12 năm 2000, Tổng bí thư Lê Khả Phiêu sang thăm Trung Quốc cùng ký với Tổng bí thư Giang Trạch Dân một tuyên bố chung “Tuyên bố về hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới giữa nước Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa” hoàn toàn không nói gì tới chuyện khai thác quặng bô xít, thậm chí còn nhấn mạnh tới việc hợp tác khoa học kỹ thuật trong cả lãnh vực “bảo vệ mội trường”. Nhưng ngày 3 tháng 12 năm 2001, Tổng bí thư đảng cộng sản VN, Nông Đức Mạnh nhân chuyến viếng thăm hữu nghị chính thức Trung Hoa đã ra “Tuyên bố chung Việt Nam-Trung Quốc” bỗng nói đến danh từ bô xít trong điểm thứ 6 như sau: “…Nhân dịp này, hai bên đã ký Hiệp định khung giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa về việc Trung Quốc cung cấp cho Việt Nam khoản tín dụng ưu đãi và Hiệp định hợp tác kinh tế kỹ thuật giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Trung Hoa, và nhất trí sẽ tích cực thúc đẩy các doanh nghiệp hợp tác lâu dài trên dự án bô xít nhôm Đắc Nông”. Bốn năm sau, tháng 11 năm 2005, Hồ Cẩm Đào sang thăm Việt Nam. Thông cáo chung công bố ngày 2 tháng 11 năm 2005 cũng không thấy nói gì tới việc này. Bỗng nhiên đúng một năm sau, tháng 11/2006, Hồ Cẩm Đào lại sang Việt Nam chuyến nữa. Lần này thông báo viết “Từng bước cải thiện cơ cấu mậu dịch, cố gắng thực hiện phát triển cân bằng và tăng trưởng bền vững thương mại hai chiều. Tích cực ủng hộ và thúc đẩy doanh nghiệp hai nước hợp tác lâu dài và cùng có lợi trong các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, công nghiệp chế tạo, khai thác nguồn nhân lực, năng lượng, chế biến khoáng sản và các lãnh vực quan trọng khác. Khẩn trương bàn bạc và thực hiện các dự án lớn như bô xít Đắc Nông…” Năm 2001 Trung Quốc chỉ nói “tích cực” để mở đường. Năm 2006 Trung Quốc khẳng định “khẩn trương” để ra lệnh. Đó là mệnh lệnh, uy hiếp lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam, mà đứng đầu là Tổng bí thư Nông Đức Mạnh phải khuất phục ký kết dự án Đắc Nông. Vì vậy đầu năm 2007, Tể tướng Dũng đặt bút ký Quyết định số 167 có nội dung “phê duyệt quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác, chế biến sử dụng quặng bô xít giai đoạn 2007 đến 2015, có xét đến năm 2025” chỉ là chuyện hợp thức hóa chuyện đã rồi. Bộ Chính trị với 14 vị lãnh đạo đã chấp nhận sự điều khiển và cam tâm làm nô lệ cho Trung Quốc rồi thì còn có ai can ngăn hay nói được điều gì nữa. Việc làm của tập đoàn Bắc Bộ phủ từ Nông Đức Mạnh trở xuống Nguyễn Tấn Dũng dưới chiêu bài đầu tư phát triển nhưng thực chất chỉ là “bọn mãi quốc cầu vinh” đã và đang bán rừng, bán biển, bán đất cho ngoại bang mặc tình khai thác, miễn sao bọn chúng vơ vét cho đầy túi tham. Mặc khác, cũng vì chúng quá ngu dốt, dù nhiều nhà khoa học đã cảnh báo rất nhiều nguy cơ khi cho Trung Quốc tiến vào Tây Nguyên khai thác bô xít là một quyết định sai lầm của đảng CSVN, không những hủy hoại môi trường, tàn phá đất nước và dân tộc Việt Nam mà còn về an ninh lãnh thổ, nhưng liệu chúng có đọc, có hiểu được không? Theo ông Hồng Hà lý giải vấn nạn này thì: “ Từ nhiều năm nay, lãnh đạo đảng CSVN là những kẻ thất học, hoặc thiếu học. Họ không đủ trình độ căn bản để hiểu ra những lien hệ về sinh thái học, môi trường học và mối tương quan của thiên nhiên đối với con người. Đòi hỏi sự giải thích cặn kẻ để cho Nguyễn Tấn Dũng hiểu, cũng khó như phân tích các mối tương quan hổ tương “ phá rừng và lũ lụt” cho một anh chăn trâu chưa học xong bậc Tiểu học. Nguyễn Tấn Dũng theo đảng lúc 12 tuổi làm giao liên ở trong rừng, không có điều kiện để học, trình độ hỉ ở mức tiểu học. Sau năm 1975, được kết nạp vào đảng giữ nhiệm vụ một y tá quèn ở Huyện. 35 năm sau thành Thủ Tướng nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Mặc dù trong lý lịch ông tự khai là có trình độ đại học nhưng điều đó chỉ là học “dõm” để bịp thiên hạ. Bản chất không học, cộng thêm sự hãnh tiến, đắc chí của kẻ nắm quyền lực làm cho ông và những đồng chí của ông mù quáng, có những quyết định sai lầm. Sự thực không riêng gì một Nguyễn Tấn Dũng mà hầu hết các vị lãnh đạo khác trong đảng CSVN đều thất học. Ông Võ văn Kiệt, ông Phan văn Khải cũng vậy. Trong cuộc tiếp kiến Tổng thống G.Bush tại tòa Nhà Trắng, ông Khải cầm tờ giấy nhỏ trên tay để đọc mấy lời chúc tụng đã ; àm cho cả nước Việt Nam xấu hổ. Ông Đỗ Mười chỉ là một anh thiến heo làng. Ông Lê Đức Anh chỉ là một cặp rằn coi phu đồn điền cao su ác độc. Ông Lê Duẫn cũng chỉ là một anh công nhân đường sắt. Hàng chục năm nay, dân tộc Việt Nam bị lãnh đạo bởi những con người như vậy thì đất nước Việt Nam phải trở thành “bùn đỏ” là hệ quả tất yếu.” Vừa thất học ngu dốt, vừa tham lam tàn độc, hám quyền lực, vừa có tinh thần nô lệ ngoại bang, cả triều đình nhà Hồ từ Hồ Chí Minh truyền ngôi xuống các đời Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn văn Linh, Lê khả Phiêu, Đỗ Mười. Nông Đức Mạnh đều một giuộc bán nước như nhau cả nên nước Việt Nam dần dần bị bọn phương Bắc Đại Hán thôn tính và đặt nền Bắc thuộc trở lại. Tháng 11 năm 2008, một học giả Đài Loan tên là Hồ Tuấn Hùng, tốt nghiệp ban Sử trường Đại học Quốc gia Đài Loan, đã từng dạy học 30 năm, cho xuất bản một cuốn sách tên là “Hồ Chí Minh Sinh bình khảo” viết về tiểu sử ông Hồ Chí Minh. Theo sách này dẫn chứng thì ông Hồ Chí Minh người Việt Nam đã bị bệnh lao và chết từ năm 1932. Một Hồ Chí Minh giả được đóng vai đưa về Việt Nam để thi hành kế hoạch của Trung Cộng trong âm mưu “thâu long chuyển phượng” nói nôm na là kế “buôn vua” của Lã Bất Vi đời Tần Thỉ Hoàng. Người đóng vai giả này cũng đồng họ Hồ, Hồ Tập Chương, quê ở Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan . Tác giả Hồ Tuấn Hùng tin rằng người nằm trong lăng Ba Đình hiện nay chắc chắn không phải là Nguyễn Ái Quốc. Sách đã lưu hành rộng rãi khắp nơi một thời gian dài, gần 4 tháng trời, làm xôn xao biết bao dư luận trong và ngoài nước nhưng tập đoàn lãnh đạo của Bắc Bộ phủ ở Hà Nội tuyệt nhiên im hơi, lặng tiếng trước sự kiện này. Thái độ im lặng của đảng cộng sản Việt Nam càng làm tăng thêm mối nghi ngờ của người dân trong nước bấy lâu vì sao tập đoàn lãnh đạo Việt Nam lại luôn luôn cúi đầu run sợ và tuân phục trước những hành động ngang ngược lộng hành cướp đất, lấn biển, giết ngư dân Việt Nam. Không rõ tác phẩm “Hồ Chí Minh sinh bình khảo” có được độ tin cậy bao nhiêu phần trăm, hoặc giả ông Hồ Tuấn Hùng thấy sang lại bắt quàng làm họ, rồi nhận vơ lãnh tụ Hồ Chí Minh của cộng đảng gian ác Việt Nam cùng là người Hẹ của mình để ké chút vinh dự chăng? Nhưng có điều chắc chắn là nhân ngày giỗ 17 tháng 2 năm 1979, đúng 30 năm, ngày Trung Quốc “dạy cho Việt Nam một bài học” về sự phản phúc, vô ơn bội nghĩa, đã xua quân qua biên giới tàn sát hàng vạn đàn bà, trẻ con Việt Nam thì Nông Đức Mạnh cho dựng “Nghĩa trang liệt sĩ Long Châu - Thủy Khẩu” với hai tượng đá lính Tàu và Việt đứng gần nhau, tại vị trí tiếp giáp với tỉnh Cao Bằng, nơi đã xãy ra giao tranh ác liệt. Hôm khánh thành, đích thân Nông Đức Mạnh, thay mặt cho vong hồn Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị, đốt nhang ngang mày, khấn vái và dâng vòng hoa kính viếng có hàng chữ: “Đời đời nhớ ơn các liệt sĩ Trung Quốc”. Hình Nông Đức Mạnh được 600 tờ báo quốc nội trang trọng đưa lên trang nhất với hết lời ca ngợi công ơn trời biển của nước Đại Hán và lòng trung thành của cha con nhà họ Hồ. Chỉ một bức ảnh cũng đủ nói lên hơn ngàn lời giải thích. Từ lúc Hồ chí Minh dâng hai quần đảo Hoàng, Trường Sa, Lê Khả phiêu dâng ải Nam Quan, thác Bản Giốc, đến nay Nông Đức Mạnh dâng 4 tỉnh Tây Nguyên, 2 tỉnh miền Trung cho Tầu cộng thì xem như kế hoạch “buôn vua” của Trung Quốc đã hoàn thành đến 90% rồi. An Nam dị sử lại chép: “ Triều đại họ Hồ kể từ khi Hồ Chí Minh cướp ngôi nhà Nguyễn, truyền đến đời Nông Đức Mạnh, con rơi của Hồ, thì bị diệt vong. Tồn tại chỉ có 6 đời Hoàng đế và vỏn vẹn 55 năm trị vì dân tộc với chế độ cộng sản độc tài, độc trị làm cho muôn dân lầm than, đồ thán hơn cả thời kỳ bị thực dân đô hộ. Vì cướp ngôi nên họ Hồ danh không chánh, ngôn không thuận với lòng dân, cho nên suốt 55 năm cai trị dù đã dùng đủ thủ đoạn gian manh, khủng bố để bắt bớ, giam cầm vô số người trong lao tù để bịt miệng những lời huyên truyền “phản động”, chận đứng các “âm mưu đòi quyền sống” nhen nhúm nổi lên khắp nơi, họ Hồ vẫn cứ nơm nớp lo sợ dân chúng nổi loạn, lật đổ. Do đó, tất cả triều đại Hồ phải luôn cầu cạnh, thần phục Trung Quốc, kể cả dâng giang sơn tổ quốc để nhờ họ bảo đảm sự bền vững cho chiếc ngai vàng. An Nam sử trước đã có Kiều công Tiễn, Trần Di Ái, Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống là kẻ bán nước cầu vinh, nay lại có thêm Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, Lê Khả Phiêu, Đỗ Mười, Nông Đức Mạnh”. Điểm lại, triều đại nhà Hồ trong suốt 55 năm thống trị, ngoại trừ thi hành các chính sách rập khuôn theo Tàu như “Cải cách ruộng đất” để giết dân cướp ruộng đất, phong trào “Nhân văn giai phẩm” để tiêu diệt thành phần trí thức, đánh “tư sản mại bản” để bần cùng hóa nhân dân, giết dân vô tội ở Huế Tết Mậu Thân để trả thù thua trận, đuổi dân miền Nam lên vùng”Kinh tế mới” để cướp nhà, lùa Quân Cán Chính miền Nam vào các trại tù để giết lần mòn như thời “đốt sách chôn học trò” của bạo chúa Tần thỉ Hoàng, thực thi chính sách ngu dân để dễ trị… đồng thời ra sức vơ vét của cải nhân dân, bán đất, bán biển cho ngoại bang cốt cho đầy túi tham riêng, khiến cho đất nước ngày càng tụt hậu, nghèo nàn thì không có công lao gì với đất nước cả. Lại thêm chính sách bán dân đi làm lao nô, làm nô lệ tình dục xứ người là việc làm bất nhân, tàn bạo, cổ kim chưa từng có. Tiếng dân oan nguyền rủa họ Hồ ngùn ngụt lên tận trời xanh. Tội ác của họ Hồ lá rừng Trường Sơn không ghi hết tội, nước sông Hồng Hà không rửa sạch mùi.” Chỉ có mấy năm nắm quyền mà giới lãnh đạo đảng cộng sản từ trong núi, rừng mò ra, trên nón cối, dưới dép râu mà bây giờ tên nào cũng trở nên giàu nứt đố đổ vách, tiền của vàng bạc không biết để đâu cho hết. Sự giàu có đó ở đâu mà có? Theo một nguồn tin tuyệt mật đã được tiết lộ mới đây (2000) từ một quan chức cao cấp Bộ Công An cho biết số tiền khổng lồ mà các quan chức cao cấp VN gửi tại ngân hàng Thụy Sĩ.” Đơn cử vài quan trong số hơn 180 quan chức được báo chí ngoại quốc liệt kê là giàu nhất thế giới: 1. Cựu Chủ tịch nước Lê Đức Anh hơn 2 tỉ USD cộng 7 tấn vàng. 2. Cựu Tổng Bí thư Đỗ Mười 2 tỉ USD. 3. Đương kim Bộ trưởng Quốc Phòng Phạm Văn Trà 2 tỉ USD cộng 3 tấn vàng. 4. Cựu Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu 500 triệu USD. 5. Đương kim Chủ tịch nước Trần Đức Lương 2 tỉ USD. 6. Cựu Thủ tướng Phan Văn Khải hơn 2 tỉ USD. 7. Đương kim Thủ tướng thường trực Nguyễn Tấn Dũng hơn 1 tỉ 480 triệuUSD. 8. Đương kim Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh 1,3 tỉ USD. Có người “yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa” bảo rằng “Các lãnh đạo ta giàu lên mau chóng là nhờ theo đúng chính sách VAC của đảng và Bác chủ trương, nghĩa là ngoài thì giờ chăm lo việc nước, việc dân, các ngài còn lo chăn sóc Vườn, chăm sóc Ao cá và chăm sóc Chuồng lợn của mình nữa. Có thế mới mau giàu chứ lị!” * * * Bây giờ người dân xứ Bắc mới nhớ lại và hiểu ra câu truyện cũ. Ngày Hồ Chí Minh lên ngôi Hoàng đế, có người đàn bà góa đêm đêm cứ thắp hương hướng về Ba Đình cầu cho bạo chúa sống lâu. Lúc ấy, hàng xóm xung quanh thấy thế không hiểu gì, cứ cho là lạ. Hóa ra thời nhà Nguyễn tuy là phong kiến, tuy bị thực dân đô hộ nhưng trăm ho vẫn còn có đời sống sung sướng, tự do hơn dưới triều đại nhà Hồ rất nhiều.
|