Bỏ Mả |
Tác Giả: Tưởng Năng Tiến | |||||
Thứ Năm, 27 Tháng 5 Năm 2010 19:51 | |||||
Tôi sinh trưởng ở miền Nam, và sinh sau đẻ muộn. Tôi hoàn toàn (và tuyệt đối) không có chuyện chi dính dáng, hay lôi thôi, hoặc phiền phức với ông Hồ.
Trong những câu thơ bút tre, một thể thơ đang được lưu truyền rộng rãi ở Việt Nam, tôi thích nhất hai câu: Tin nghe như sét đánh ngang Nói như thế rất dễ gây ngộ nhận rằng tôi có ác cảm, hay thành kiến gì đó, với ông Hồ Chí Minh. Không dám (ác cảm) đâu. Đừng nghĩ tầm bậy, tầm bạ như vậy mang tội chết (mẹ) à nha. Tôi sinh trưởng ở miền Nam, và sinh sau đẻ muộn. Tôi hoàn toàn (và tuyệt đối) không có chuyện chi dính dáng, hay lôi thôi, hoặc phiền phức với ông Hồ. Tôi khoái hai câu thơ vừa dẫn, chỉ vì sự duyên dáng của chính nó – thế thôi. Có những câu thơ bút tre khác, cũng nói đến cái chết của ông Hồ nhưng tôi không thích mấy – thí dụ như: Tin nghe như sét đánh gần Hoặc: Vào trong hang Bác âm u Riêng hai câu sau, theo thiển ý, không những đã kém duyên dáng mà còn thiếu phần thanh nhã. Nó nói lên sự khinh miệt, một cách sỗ sàng, của “chị em phụ nữ” (nước ta) trước thi hài của Hồ Chủ Tịch. Mà bầy tỏ sự bất kính đối với một người đã khuất (cho dù họ là ai chăng nữa) là điều trái với văn hoá của dân tộc Việt, ở khắp mọi miền – nhất là miền ngược, nơi mà phong tục tập quán (thường) có vai trò rất quan trọng trong sinh hoạt hàng ngày. Nhân nhắc chuyện phong tục/tập quán của miền xuôi/ miền ngược, tôi chợt nhớ cách đây khá lâu – trong lúc cao hứng – thi sĩ Trần Đăng Khoa có tâm sự rằng: “Vừa rồi tôi có đi Tây Nguyên dự lễ bỏ mả của gia đình ông Y Ngông Niết Đam. Người Eđê có một tục lệ rất đặc biệt. Khi nhà có người chết, gia đình con cháu hàng ngày vẫn nuôi nấng, vẫn mang cơm nuớc ra mộ, khi có điều kiện họ làm lễ bỏ mả. Đó là bữa tiệc linh đình chia tay vĩnh viễn với người chết. Sau đó họ không quan tâm đến ngôi mộ ấy nữa, để linh hồn người chết được siêu thoát, không còn vướng víu cõi trần. Tôi cũng đã làm xong cái lễ bỏ mả cho thơ ca thời niên thiếu của tôi.” (Trần Đăng Khoa. Chân dung và đối thoại. Hà Nội: Thanh Niên. 1988) Bỏ mả, thực ra, không phải là tập tục “rất đặc biệt” của người Eđê ở Tây Nguyên mà là tập tục chung – ở nhiều nơi – của nhiều sắc dân khác nữa. Người Roglai, người Rhadé, người Bahnar, người Djarai… ở miền Nam và miền Trung nước Việt đều thế cả. Bốn mươi năm trước, cố học giả Toan Ánh đã có một bài viết (rất cô đọng) về tục lệ này: “Đối với người Roglai – sắc dân sống rải rác các tỉnh Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận, và Lâm Đồng – lễ cúng bỏ mả có nghĩa là người sống từ giã người chết. Lễ này đuợc cử hành sau mùa gặt hái đầu tiên, tính từ ngày người chết qua đời. Mùa gặt hái hoàn tất, mọi người đều rảnh rang nên lễ cúng bỏ mả làm linh đình lắm. Có giết trâu mổ bò, mời thầy cúng làm lễ cho người khuất rồi đãi làng nuớc. Sau lễ bỏ mả là hết, ngôi mộ không đưọc ai chăm sóc nữa. Người Rhadé, đa số sinh sống ở tỉnh Darlac và Quảng Đức, cũng có lệ bỏ mả vào mùa gặt năm sau. Người nhà ra mộ khóc lóc một lần cuối rồi mộ bị bỏ hẳn. Kỷ niệm của người chết cũng chìm dần vào quên lãng. Người Bahnar – sắc dân sống ở Đông Nam Kômtum, Tây Bắc Pleiku, và phía Tây Bình Định – cũng chỉ chăm sóc mộ phần một năm… Sau đó họ làm lễ tạ rồi san phẳng, và từ đây không còn ai ngó tới.” (“Tang lễ của đồng bào Thượng” – nhật báo Cách Mạng Quốc Gia, Sài Gòn, số phát hành ngày 1 tháng 9 năm 1963). Trong phần kết luận của bài báo này, Toan Ánh viết như sau: ”Gần đây nhiều đồng bào Thượng đã di cư về gần chúng ta, có lẽ rồi đây phong tục của họ sẽ bị ảnh huởng của chúng ta mà có sự biến cải. Ánh sáng văn minh đã rọi vào nuớc Việt Nam, lẽ tất nhiên sự tiến bộ của chúng ta sẽ thúc đẩy sự tiến bộ của đồng bào Thượng, anh em chúng ta.” Tôi rất trân trọng tinh thần bao dung, coi tất cả mọi người sống trong nước Việt đều là anh em đồng bào, của học giả Toan Ánh; tuy nhiên, khi quan niệm rằng “có lẽ rồi đây phong tục của họ sẽ bị ảnh hưởng của chúng ta mà có sự biến cải” (nhưng quên viết thêm và ngược lại) để cùng tiến bộ” thì tôi sợ ông hơi quá tự mãn về phong tục và tập quán của văn hoá miền xuôi. Nói cách khác, một cách hơi vô lễ, tôi e là Toan Ánh có hơi bị ethnocentric. (Còn nói thiệt tình thì tôi chưa bao giờ gặp được bất cứ một người Việt Nam nào, ở đồng bằng, biết tỏ ra khiêm tốn chút đỉnh về văn hoá của họ). Và đây là một thảm kịch, sẽ còn rất nhiều hệ lụy, của dân tộc Việt, trong tương lai gần! Giao thoa là hệ quả tất yếu khi có sự tiếp xúc giữa hai hay nhiều nền văn hoá. Xin đơn cử một thí dụ về vấn đề này, bằng cách tiếp tục câu chuyện đang bỏ dở – chuyện “Bác Hồ đang sống chuyển sang từ trần”. Tập tục bỏ mả của người miền cao, tôi trộm nghĩ, có nguồn gốc từ đời sống du canh. Do sự di chuyển không ngừng, để tìm đất đai canh tác, nên cơ hội trở lại nơi chốn cũ – để thăm viếng mộ phần – rất hiếm hoi; do đó, kẻ còn ở dương gian lễ tạ mả cho bớt áy náy khi phải rời bỏ phần mộ của người đã khuất. Với thời gian, dân số mỗi lúc một tăng nhưng đất đai thì vẫn vậy. Diện tích canh tác giới hạn, không cho phép kéo dài phương thức du canh, người ta buộc phải dần từ bỏ nếp sống này để làm quen với đời sống định canh – hay bán định canh – nơi miền sơn cuớc. Từ đây, tuy có nhiều cơ hội gần gũi với mồ mả của những người đã khuất hơn nhưng tập tục bỏ mả vẫn còn được lưu truyền. Lý do, phần vì tập tục văn hoá bao giờ cũng biến đổi chậm hơn những đổi thay trong đời sống thường nhật; phần khác, quan trọng hơn, vì lý do kinh tế. Khi những phuơng tiện kỹ thuật để hỗ trợ cho việc sản xuất vẫn còn ở mức độ thô sơ, khi đất đai không phì nhiêu trù phú, và khi nhân khẩu mỗi lúc một tăng thì việc “hàng ngày vẫn nuôi nấng, vẫn mang cơm nuớc ra mộ” cho người đã khuất là một thứ lễ nghi xa xỉ không thể kéo dài. Do đó, bỏ mả là một tập tục thực tế và cần thiết cho chuyện sinh tồn. Cũng theo Toan Ánh, qua bài báo đã dẫn: “Lễ tạ mả có thể cử hành ngay sau khi chôn cất nếu tang chủ quá nghèo. Chôn cất xong là thôi, người nhà cũng như dân làng không ai nhắc nhở đến người quá cố nữa vì mộ đã tạ rồi.” Dân tộc Việt, rõ ràng, thuộc vào diện “tang chủ quá nghèo”, và cái lăng của ông Hồ thì hiện diện đã quá lâu. Tôi ước ao sao một số những người dân Việt (ở miền xuôi) học được phần nào sự khôn ngoan và thực tế – về tục lệ bãi mả như thế – từ những đồng bào Eđé, Rhađé, Bahnar, Djarai… nơi miền sơn cước. Về vấn đề này, hơn mười năm trước, giáo sư Trần Khuê và tác giả Nguyễn Thị Thanh Xuân đã đề cập: “Chúng ta đề nghị Tổng cục Thống kê và Bộ Tài chính thử tính sổ xem 30 năm qua ta đã tiêu tốn vào lăng Người tổng số là bao nhiêu tiền của… Và thử xem riêng ngân sách dự chi cho năm 2000 xem có thể xây được bao nhiêu trường học cho một ngàn xã hãy còn vắng về giáo dục ở miền cao. Có thể xây bao nhiêu căn nhà để nuôi trẻ mồ côi… Có thể xây bao căn nhà dưỡng lão cho người già lão cô đơn, không nơi nương tựa. Có thể xây bao nhiêu nhà thương làm phúc chữa bệnh cho người nghèo…” Mới đây, Tổng biên tập Mạc Việt Hồng của Đàn Chim Việt (nhân dịp kỷ niệm sinh nhật thứ 120 của ông Hồ Chí Minh) cũng đã nêu lên “việc bảo quản thi hài rất tốn kém” này – trong một cuộc phỏng vấn dành cho giáo sư Hà Văn Thịnh – và được cho biết như sau: “Tốn kém là có thật. Tôi biết điện để làm lạnh cho việc bảo quản thi hài ông bằng điện dùng cho một thị trấn. Với người phương Đông mình, có khi phải chấp nhận thôi. Đã đưa Bác vào chôn cất trong lăng rồi, giờ lại đưa ra thì như vậy có tội với người đã khuất vì đã lỡ như vậy rồi. Giờ lại đưa ra thì không ổn. Điều này tôi không tán thành đâu. Không phải tự nhiên mà người dân Nga người ta vẫn giữ thi hài ông Lênin như vậy. Hơn nữa, nói gì thì nói, dù có những khiếm khuyết, những sai lầm, Hồ Chí Minh vẫn là nhân vật lịch sử đẹp nhất trong lịch sử cận đại Việt Nam. Dân tộc nào cũng cần một lãnh tụ như thế. Ông Washington chẳng hạn, cuối đời cũng nhiều sai lầm nhưng người dân vẫn tôn trọng ông. Với tôi Bác vẫn là người vĩ đại.” Tôi hoàn toàn và tuyệt đối tôn trọng tình cảm của giáo sư Hà Văn Thịnh, hoặc bất cứ ai, đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Và tôi cũng tin rằng không có gì sai nếu họ ra lăng của Bác Hồ khóc lóc một lần cuối (cho nó đã) rồi thôi – theo như tập tục bỏ mả của những đồng bào ở miền sơn cước – để cho người quá cố được yên nghỉ dưới suối vàng. Chứ bòn rút xuơng máu của người sống để phụng sự cho người chết, dù có bằng lòng thành chăng nữa, vẫn là điều bất trí. Mà dân làng Ba Đình Hà Nội (e) không mấy kẻ thành tâm như thế đâu. Đối với họ, cái lăng của ông Hồ chỉ là một thứ môn bài (patent) được trưng bầy để tiện việc hành nghề cách mạng – thế thôi. Mà dựa vào người chết để vinh thân là một chuyện bất nhân. Chúng ta không có lý do gì để tiếp tục một chuyện vừa bất trí, vừa bất nhân như vậy mãi. © K’Tien
|