Chửi Mất Gà |
Tác Giả: Phí Ngọc Hùng | |||
Thứ Sáu, 26 Tháng 6 Năm 2009 00:48 | |||
Lời toà soạn: Bài văn độc đáo này dẫn dắt độc giả chúng ta trở lại khung cảnh của làng quê ngoài Bắc VN ít nhất là bảy tám chục năm đã qua, truớc cả cuộc kháng chiến Kháng Pháp của dân tộc. (QV) Một buổi sáng ở làng Bùi Trên( họ Bùi ở thôn trên), hiu hắt cùng mây trắng trời xanh, vắng hẳn tiếng gà quang quác, tiếng lợn eng éc. Buồn nẫu ruột hơn nữa là đầu thôn cuối xóm chỉ tòan nhà tranh vách đất, im ắng đến u tịch. Giữa hàng xóm láng giềng cũng có hàng giậu thưa, vẩn vơ dăm con bươm bướm trắng, vài ba chú chuồn chuồn vật vờ. Vào buổi sáng hôm ấy, sau cây chanh thấp tè, rõ mồn một là chị phó rèn, áo sồi váy đũng, đang nhởn nha ngồi chồm hổm sàng gạo với cái nia bé con con. Thỉnh thỏang chị nhón một hạt thóc như bắt chấy, bắt rận, bỏ vào miệng nhậm gấm, cắn cái đốp rồi nhổ bẹt xuống đất. Lâu lâu ngẩng đầu lên nhìn ra góc vườn, như ngóng đợi tìm kiếm, thỉnh thỏang lại bâng quơ chép miệng một cái như gọi gà, ới vịt. Lạc lõng bên thửa cà là lứa gà con, con trắng con nâu, kêu chiêm chiếp, mặt mày ngơ ngác…như gà con mất mẹ. Cái sân gạch thẻ nhà bên này cũng thiếu vắng hẳn ‘anh’ vện( con chó vằn vện), gác đầu lên hai cái chân bắt chéo, mắt lim dim hay chị mướp lười biếng nằm dài phơi mình dưới nắng hanh vàng, chốc chốc lại thè lưỡi liếm lông, liếm cẳng. Ấy là cơ ngơi của nhà ông bà Cửu ( cửu phẩm), khác chòm xóm chung quanh với ba gian hai chái, trăm sự cũng qua một tay bà Cửu thu vén cơ ngơi nhà chồng, có một dạo nhà cửa ruộng vườn bề thế nhất làng, nhất xứ. Vào cổng là vườn, phải qua cái ao đầy cá trắm, con nào con nấy béo nần như đang có chửa, lại có cả cây cầu gỗ lùn tịt để rửa rau, vo gạo, vỗ váy, giặt yếm, đập chiếu… Còn ông Cửu, nghe nói xưa kia làm thông ngôn cho lính thợ với Tây, áo gấm về làng, áo dạ khuy đồng, mũ “chào mào”, giầy “săng-đá”. Chó cắn mèo cào, mua không được chân lý trưởng, ông quơ được cái…cửu phẩm. Nói cho ngay, từ hàng nhất phẩm đến thất phẩm là cho các quan thông kinh sử như quan sán sát, quan đốc học; còn bát phẩm và cửu phẩm cho hàng thứ dân. Chả phải nói mẽ, nghe các cụ kể lại, chạy được hai cái…danh ôn này cũng hốc người ra chứ chẳng ngon sơi gì, mã phu mang thông tri của quan huyện trình tấu chạy vào tới kinh đô Huế. Quan bộ lễ săm soi cả năm trời, xin sắc chỉ, sắc phong, nói dối phải tội, mang về đến làng cũng cả hai, ba năm… Vừa lúc bà Cửu vén cái mành cửa bước ra, tay che mắt vì cái nắng hướng đông, đóan chừng là giờ mẹo. Không một ngọn gió, cây như đứng im, lá không lay động. Trời như khô, lại hâm hâm, chắc có cơn giông, cơn bão âm ỉ đâu đây. Vừa định quay vào thì cũng vừa lúc chị láng giềng nhìn qua bắt gặp. Mà sắp có giông tố thật, từ nẫy đến giờ chị chỉ đợi có bấy nhiêu, trong cái vắng lặng của trời cao đất rộng, chỉ thiếu tiếng sáo diều vi vu. Chị phó rèn, cái yếm đã sẫm màu cháo lòng phơi ra nhờ cái áo nhuộm củ nâu cũ kỹ, cái váy bằng vải đen mộc thả lửng lơ dưới gót chân. Chị nức tiếng chanh chua ở cái thôn này, chị đang như con diều hâu từ trên cao lặng lờ sà xuống hớt con gà con, nhưng cũng không quên dang cánh đảo một vòng thăm chừng. Chị đỏng đảnh mào đầu bâng quơ bằng câu chửi tự biên tự diễn : “ Mả bố đứa nào bắt gà của bà! Mày bắt gà bà, mày băm, mày bổ, mày rỉa, mày rói, mày gói, mày dâng cho thằng trắng râu đầu bạc, nó sắp sửa ngồi bát bình hương nhà mày nó xơi nhá ” . Còn ai trồng khoai đất này, “thằng trắng râu đầu bạc lại sắp sửa ngồi bát bình hương” là chính ông Cửu đây chứ ai. Đang nằm bẹp dí bên khay bàn đèn thuốc phiện trên căn nhà ngang, ông nghe vanh vách, không sót một tiếng…Dưới gầm phản, con vện cũng hãi quá thể, cụp đuôi nằm co rúm. Thế nhưng lúc này, ông đang lơ mơ về một thời vang bóng cùng ngẫm chuyện nhân sinh, nào là sống ở trên đời chả được mấy, như cánh hoa sớm nở tối tàn. Không ăn chơi cũng thiệt, chẳng ăn cũng thiệt vào thân, chẳng chơi cũng già, mà đã ngập vào chốn ăn chơi, tâm giao tri kỷ cũng chẳng ngòai khi buồn thuốc phiện, lúc chơi cô đầu này kia… Ông Cửu năm nay mới ngòai bốn mươi, vậy mà con cháu trong nhà vô phép vô tắc gọi là…“cụ”. Một phần vì cụ khó tính khó chiều, dở người lại hay gắt như mắm tôm. Một phần khác, thọat đầu cụ bỏ ra vài hào, làm vài khói bên cái bàn đèn gạo ngòai phố huyện, rồi cụ bị ả tiên nâu nó hành lúc nào không hay nên hom hem, lụ khụ và khọm trông thấy. Hôm nay dậy muộn, cụ nằm khểnh trên cái phản mộc nghe chị hàng xóm mắng chó chửi mèo, quên tiệt đi mất là từ sáng đến giờ chưa làm ‘ngao’(vỏ ngao, hến dùng để đựng nhựa thuốc phiện) nào. Tiện tay quơ cái dọc tẩu, cụ phồng má lấy hơi thổi phù phù vào cái đít dọc tẩu cho thông hơi thông điếu, chậm rãi hơ cái nõ qua ngọn đèn dầu lạc cho vừa đủ nóng, tiêm một viên bi thuốc phiện lấy ra từ cái hộp dẹt tròn, dấu in hình nổi “Bà Đầm Xòe” với cái tít: “Công Quản Nha Phiến Đông Dương“ mà cụ đã cậy cục mua ở phố Khâm Thiên, tận Hà Nội. Cụ lào thào: “Rõ đáng đời”. Ấy là cụ trộm vía rủa thầm tiện nội cụ đấy thôi. Từ nãy đến giờ bà Cửu, mới bảnh mắt ra chả biết nếp tẻ gì, mà chuyện đá thúng búng nia gì đây, đồ cái thứ gái góa ăn không ngồi rồi, ngứa chôn ngứa mồm mang ông chồng già bà ra mà réo. Trong đầu bà lầng quầng: “Giời ơi là giời, bỏ mẹ nó rồi, gặp bà thì cứ bỏ xác. Bà báo đời cho mày biết…”. Lạt mềm buộc chặt, để đấy rồi bà sẽ văm như văm cám, bà sẽ bằm nó ra như bằm chuối cho lợn ăn. Nhưng bà im thin thít như thịt nấu đông, bà đang ú ớ, chưa biết tung hê lời ăn tiếng nói sao cho mát mẻ, cho gọn gàng nề nếp. Thì cũng vừa lúc chị phó rèn đứng lên vén váy, gấu áo giắt dưới cái dải rút, hai tay vỗ đen đét vào nhau, chân nhún nhẩy, ngóac mồm gào tóang lên, âm thanh lỏang xỏang, chan chát như búa tạ đập xuống đe: Làng trên xóm dưới, bên ngược bên xuôi, tôi có con gà mái xám. Hôm qua tôi còn cho nó ăn, thế mà bây giờ nó bị mất. Ai bắt được thì cho tôi xin, nếu không trả thì tôi chửi cho mà nghe. Ấy…ấy… Cụ Cửu hóng mắt qua phên tre nhìn sang bên kia, vừa lúc chị phó rèn ngúng nguẩy quẹt miệng và co cái đầu gối lên. Giời ạ, người ngợm gầy như que tăm…Cụ lại lẩn mẩn về những ngày tháng thoi đưa, ngày ấy cô nàng có da có thịt, đang lom khom múc nước nhờ ao nhà cụ, áo cánh phin nõn cổ tròn, lồ lộ cái gáy trắng như cùi bưởi. Quần lĩnh đen, gấu vén lên tận bắp đùi, cổ chân tròn chịa như bắp chuối non. Nghe tiếng chân cụ lao xao đi đến, ngày ấy cụ mới ở bên Tây hồi cố quốc, cô nàng lờ đờ như chị vịt chống gậy, vậy mà ngoắt một cái cắm đầu le te chạy vù vào nhà và cụ chỉ biết cười tủm với những đong đưa cùng gió thỏang mây trôi… Ấy là chị đang nhỏ nhẹ xưng “tôi” và sắp kiếm chuyện chan tương đổ mẻ gì đây. Mà chuyện gì mới được chứ, bà Cửu đang phân vân thì chị hàng xóm như chờ đợi cái thời cơ này từ lâu lắm. Bây giờ ấm ức giận hờn này mới được bung ra như ngô rang, lên bổng xuống trầm với giọng ngọt như mía lùi, mát hơn đường phèn. Chị tung tẩy: Bố cái thằng chết đâm, cha cái thằng chết xỉa. Mày day tay mặt, mày đặt tay trái, nỡ ăn cắp của bà đây con gà. Này bà bảo cho chúng mày biết: Con gà nó ở nhà bà, nó bị bắt trộm về nhà mày thì nó thành con cú, con cáo, con “thành đanh mỏ đỏ”, nó mổ mắt xé xác ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con cái nhà mày đấy. Ấy…ấy..Mày ăn thịt con gà nhà bà thì mày ăn một miếng, chết một đứa, ăn hai miếng chết hai đứa, ăn ba miếng chết ba đứa và ăn cả con gà đó sẽ chết cả ổ nhà mày… “Cái thằng chết đâm, cha cái thằng chết xỉa” đang thong thả “day tay mặt, đặt tay trái” khẽ nhấn nhấn chất dẻo vừa đủ chặt sau đó nhẹ nhàng châm lửa. Trong cái vắng tanh vắng ngắt của gian phòng ẩm thấp, gần như cụ nghe tiếng chửi xéo, nghe sèo sèo như của chất nhựa quánh gặp nóng kêu riu riu. Trong cái giây lát yên ắng chờ đợi sắp gặp gỡ ả phù dung, cụ thót bụng lấy hơi từ lục phủ ngũ tạng. Đưa cái đít dọc tẩu ngang cửa miệng, thông qua cái yết hầu nhấp nhô lồi lõm, cụ hít vào một chập thật lâm ly quy phượng như lõ cả bộ điếu ra. Tiếng ống điếu kêu ro ro ròn tan, mùi thơm ngào ngạt tỏa khắp nhà. Cụ lờ đờ nhả ra từng cụm phùn phụt như khói tầu hỏa giữa gian phòng thênh thang, không một bóng người. Trừ con thạch thùng đang đờ đẫn trên vách tường, bỗng nó buồn tình tặc lưỡi một tiếng “tắc” vô nghĩa. Nhưng nếu nhìn kỹ, cái màng cổ họng trăng trắng của nó đang phập phồng, kéo lên kéo xuống, thì ra nó cũng đang hít hít chút hơi hám cơm thừa canh cặn của cụ. Bên kia hàng rào, tiếng chửi chí chát của chị phó nề lại vang vọng như gọi hồn: Bốn thằng cầm cờ xanh đứng đầu ngõ, ba thằng cờ đỏ đứng đầu làng, đưa đám tang cả nhà mày ra đồng làng chôn đấy. Mày có khôn hồn mang trả ngay con gà đó cho tao, kẻo không tao đào mồ, quật mả cao tầng tổ khảo, cao tằng tố tỉ, thúc, bá, huynh, đệ, cô, dì, tỉ muội nhà mày đấy. Bất giác cụ nhăn mặt vì chả hiểu chị này hát hỏng như kéo đàn nhị, đàn gáo với: “cờ xanh đứng đầu ngõ, cờ đỏ đứng sau nhà, cờ vàng dựa bên hữu, cờ trắng nghiêng bên tả”. Bố khỉ, cứ như hát cô đầu không bằng,.. cụ lại dây dưa liên tưởng nhớ về chuyện cũ: Dạo ấy chị đây cũng đẹp gái, đẹp nết ra phết chứ đâu có đùa, lâu lâu dòm cũng hay gớm, cái yếm sồi rộng toang tóac đựng hai quả bưởi to đùng, bắp đùi to bằng con cá trắm, đít chành bành như cái lồng bàn…Trong khi tiện nội cụ, gầy thầy cơm, ăn thủng nồi trôi dế, người vẫn đuỗn ra như con lươn, con trạch. Cụ lại nghĩ đến câu nói của ông chánh tổng Đòan: “Các mụ nhà ta đều giống miếng thịt ngan già luộc dối, đã hoi lại dai như chão”. Đầu óc mông lung như sương khói, như ếch vồ hoa mướp, cụ vẩn vơ mơ tưởng đến…Và cụ dặn mãi mới ra câu thâm nho của các cụ đồ xưa là thê..thê gì…như thê bất như thiếp, thiếp bất như tì, tì bất như đạo, đạo như đạo bất đạo. Bỗng cụ khóai chí tử cười khan, vỗ đùi đét một cái như bị muỗi đốt… Vườn rộng ao sâu, cụ vẫn lắng nghe chị phó réo rắt chửi, chị có thể chửi cả buổi, cứ như với cái điệu văn vẻ có tông, có tích, cứ thượng tổ, hạ tổ nhà hàng xóm đến tàn cây héo lá thì mồ mả tổ tiên nhà cụ cũng phải nhẩy dựng đứng lên. Buồn buồn gãi khô búng ghét, chả biết làm gì, cụ lại vểnh tai nghe chị phó nề chửi tiếp: Cha tiên nhân ông nội, ông ngọai, ông dại, ông khôn, đồng môn chi rễ nhà mày nhé. Mày gian tham đã ăn trộm, ăn cắp con gà nhà tao. Rồi ra, nhà chúng mày chết một đời cha, chết ba đời con, đẻ non, đẻ ngược, chân ra trước, đầu ra sau, đẻ sót nhau. Chết mau chết sớm, chết trẻ đẻ ngang nhé… Đẻ với đái, đến đây thì giời chẳng chịu đất, đất phải chịu giời, bên này bà Cửu than thầm: “Ối giời cao đất dầy ơi, đúng là giống mồm chó vó ngựa, đúng là cái con mụ nạ dòng chết bầm chết tiệt này nó chửi gà, chửi qué đến …thằng cả nhà bà thì phải”. Giận bầm gan tím ruột, như muốn đào mồ đào mả ông cố nội nhà nó lên, nhưng bà phải vào nhà xách cơi trầu ra làm một miếng cho thấm giọng cái đã. Rồi bà ngồi bệt xuống bên hè, vừa têm trầu vừa chửi vọng qua bên kia: “ Cha tiên nhân tam tứ đại đồng đường nhà mày, đồ quạ tha ma bắt, đồ ăn gian nói dối, dám đổi trắng thay đen, dám vu oan giá họa cho nhà bà. Bà truyền bảo ba hồn chín vía cho nhà mày biết: Quân điêu ngoa đi ngang về tắt, quen thói giăng hoa chim chuột, không chết treo chết chém thì cũng chết sông chết ngòi, chết đường chết xá, mưa sa gió dập đời mày. Ba vạn chín nghìn âm binh quen dựng điều đặt chuyện, cũng không cứu nổi cái tội mỏng môi hay hớt của m..à..y…m…à..y..đấy nhá !” Chị phó rèn mặt đỏ lên phừng phừng, rừng rực như cái lò nung bốc khói. Chị cũng bốc, tay vung miệng chửi, chửi đơn, chửi kép, chửi chùm, chửi lợp. Chị chửi có gai, có ngạnh, cho thỏa chí bình sinh là dân đồng chua nước mặn nhưng cũng văn tế, văn vẻ như ai, mồm miệng nước bọt, nước rãi dẻo quánh như nhựa sung, nhựa mít : Con gà của tao nuôi bằng gạo, bằng thóc, vậy thằng cha nhà mày đã bắt con gà của tao. Nó là con gà, con qué, nó về nhà mày là con cú, con cáo, nó mổ gan lòi ruột đứa nào ăn miếng thịt gà nhà tao. Nó là thành đanh đỏ mỏ rút ruột rút gan nhà mày ra. Mày không thả gà nhà tao ra, tao đóng ghế 9 tháng 10 ngày, buổi sáng tao chửi, buổi chiều tao tế, buổi trưa tao hú, buổi tối tao nguyền. Tao rủa cho cây vàng lá, cho quả chột thui, cho thần trùng đến rút từng khúc ruột cha, ông, vợ, con nhà mày ra.” “…vợ con nhà mày…”, đúng là vợ dại cái mang, số là cụ chưa đến cái tuổi ngũ… ngũ thập tri thiên mệnh thì phải, chưa chi tiện nội ( vợ) cụ đã nhanh nhẩu đỏang khuân cái kim tĩnh bằng gỗ vàng tâm đặt lù lù ở giữa nhà. Riêng cụ chả dại về chầu ông bà ông vải vội, vậy mà tiện nội cụ đã nghe thằng cả súi bẩy, mang cái quan tài vàng khè về đặt chềnh ềnh ở giữa nhà để báo cô, báo hiếu. Cụ thấy cụ còn khỏe như vâm, còn tiện nội cụ thì ôi thôi, tối tối cứ ho khan, ho đặc, nửa đêm nửa khuya cứ lục đục đi giải xòanh xọach, tim gan phồi phẻo ắt hẳn muốn ấm ớ gì đây. Nói dại chứ tiện nội có…mắt trắng dã, tay bắt chuồn chuồn thì hai bố con cụ cứ trơ mắt trẫu nhìn nhau, của khôn người khó, nhà lại neo người. Cớ sự này thì cụ phải tính, không tính không xong, ấy là chuyện thằng cả…Cụ đang bí ngô, bí khoai với đường thê nhi của ông con thì cũng may. Gặp lúc mây chiều gió sớm, mới ra giêng đây, bà chánh tổng làng “Bùi Dưới” bắn tiếng với tiện nội cụ về cô gái rượu của họ. Đất Nam Định cụ, cả hai làng này chỉ có một họ Bùi, làng Bùi Dưới( dòng họ Bùi nhà ở thôn dưới) lại…ngọng líu ngọng lo mới rõ khổ nên gái làng mới ế chỏng gọng, thế là trâu đi tìm cọc, gái Bùi Duới cứ nhè trai Bùi Trên mà gá nghĩa. Hương ước làng còn ghi lại rành rành như chuyện xưa tích cũ, nói chẳng ai tin mới rõ khỉ. Mà ả “Bùi Dưới” đây, cụ biết thừa bứa ra đấy, răng đen hạt na, tóc vấn trần nhưng chỉ cái tội lớn tuổi nhầng nhầng, người ngợm vừa gầy vừa khô. Ấy là khô chân gân mặt, các cụ ta xưa dậy là đắt tiền mấy cũng mua, như mua trâu mua lợn vậy. Chuyến này cọc đi tìm trâu, cụ Cửu không…”đặt cọc” cũng không xong, cứ nhìn cái cơ ngơi nhà ấy thì rõ ngay tán tàn, nhà năm gian hai trái, ngói lợp tòan bằng ngói ta, đều tăm tắp như vẩy rồng, rêu phong cổ kính. Riêng cái sân gạch mầu gan gà cũng khỏi chỗ chê, lát gạch vồ chắc khừ, viên nào viên nấy cứ vuông bằn bặt gối đầu lên nhau, nung chín đỏ tím lịm, trông thấy mà mát cả mắt. Đến nước này thì ông con cụ như chuột sa chĩnh gạo chứ còn gì nữa, ruộng thượng đẳng điền, chuồng rậm rịch lợn đàn, trâu nghé. Riêng cụ thì lọt sàng xuống nia, đánh đổ đánh tháo ngày cũng được mươi ngao. Mà cũng chẳng biết cái thằng mít đặc con cụ có ưng không mới rõ khỉ, chẳng cần làm vài bi đi mây về khói, nói phải củ cải cũng phải nghe, vì cụ biết thằng con cụ sợ bố một phép. Trò đời cái giống đàn ông, con trai như cái nơm( nơm để bắt cá ở miền Bắc VN) chòm chọp, úp xuống là cũng đâu vào đấy cả. Nếu như tiện nội cụ rằm cũng ừ, mười tư cũng gật thì cụ sẽ bảo ra chợ huyện sắm cơi trầu, ít bánh cốm, đôi gà trống thiến để xin cái lễ xem mắt. Sau đám cưới, làng nước trông ra, quan viên trông vào, chắc phải nhúng con vện vào nồi nước sôi quá, kèm dăm chai rượu Ty của nhà nước Bảo Hộ thì nhà cụ mới thông thóang ra được. Tiện nội cụ bắt qua chuyện về cô con dâu tương lai, mặt mày thô vụng, người dài như con sếu, chẳng biết vác về có được tích sự gì không, hay lại nằm ườn chẩy thây, chẩy nước ra đấy. Khi này cụ mới xuống giọng, bà đừng có vẽ chuyện với trông mặt bà bắt hình dong, bà chống mắt lên mà xem, chim khôn thì khôn cả lông, khôn cả cái lồng người sách cũng khôn. Hai vợ chồng nhà cụ nói chuyện như bánh đa bánh đúc, bà lại lải nhải với cụ: Ai lại đi xem mắt vợ mang con gà trống… thiến, hai đứa làm sao mà đẻ đái được nữa đây…Rồi thì cái hôm xem mắt vợ cho thằng cả cũng xong tất. Xong thế nào được, bên kia chị phó rèn đang điên tiết, hai chân dẫm thình thịch xuống đất và dẫy đành đạch như đỉa phải vôi. Giận mất khôn, chị chả hiểu nghĩ sao, hai tay nắm gấu váy chị vén phứa lên như khoe của và há họng chửi tung hê: - Tao hú ba hồn bẩy vía thằng đàn ông, ba hồn chín vía con đàn bà nào đã bắt con gà nhà tao. Thằng đứng chiếu ngang, thằng sang chiếu dọc, thằng đọc văn tế, thằng bế cái hài, thằng nhai thủ lợn. Tao gọi ông cầm cờ xanh đứng đầu ngõ, ông cờ đỏ đứng sau nhà, ông cờ vàng dựa bên hữu, ông cờ trắng nghiêng bên tả, yểm cho nhà mày đẻ con ra thì ngược, sinh cháu ra thì ngang vì dám cả gan ăn con gà mái nhà tao. Bà Cửu không thể để con mụ tai ngược mồm loa mép giải này lên chân được nữa: Trên rừng có sơn lâm, dưới sông có hà bá, phải dần mụ này một mẻ, phải trị nó thẳng tay. Đúng là cái thứ xanh vỏ đỏ lòng, mới hôm nào đây lẻo mép nhà bác với nhà em, nào là dạo này nhà em túng bấn quá, đám Bùi Dưới ấy em chả dám dây vào, trăm sự nhờ bác cả, nay vay rá gạo, mai mượn rổ khoai. Mà con này nói ngọng nữa mới bỏ bố, nghe đến…bùi dưới, bà muốn tóet miệng…phì cười. Ấy vậy mà bây giờ giở mặt thớ lợ, nỏ mồm chua ngoa, nó muốn trêu ngươi ai đây mà độc mồm thế không biết. Thế là ba máu sáu cơn bà nổi lên, bà bỏ cơi trầu xuống, khăn vuông vắt vai, một tay chống sườn, một tay lồng lộn vung vẩy. Bà bước tới bước lui trên mặt đất thô, cứ mỗi bước đi, ngón tay trỏ cong khoằm như mỏ vẹt, lại mổ đôm đốp sang bên kia xỉa xói, như được thuê đòi nợ chiều ba mươi tết với năm cùng tháng tận. Bà chửi toang hóac: “Tổ cha chúng mày…”. Bà cũng bắt chước con nặc nô, ngừng một chút nghe động tĩnh, rồi bà lồng lộn, gân cổ như con gà chọi, bà chửi te tái:: “ Cha đẻ mẹ thằng đàn ông, con đàn bà nào quen thói bán không mua chịu, quen vay đầy giả vơi, đẻ con có mồm mà nói điêu, có mắt mà nói mò như mày…Cha đẻ nhà chúng mày nhá… ”. Cạnh cái bàn đèn là ông đầu rau nhỏ bằng quả bưởi, cụ thong thả nhấc cái siêu nước trà đang được hâm nóng từ cái lò than, những bông hoa lửa bắn ra như pháo hoa cà, hoa cải. Chiêu trà vào cái chén tống to bằng quả bứa, cụ khẽ cất đầu khỏi cái gối mây, nghiêng mình hớp một ngụm. Cụ hãm khói thuốc phiện, rồi từ từ nhả ra những mảng khói xanh nhạt nhỏ, từng đợt từng sợi mỏng tanh như mây chiều giăng giăng đầu núi. Xong từng ấy lễ bộ, cụ khẽ trở mình nằm vật ra lơ tơ mơ như cóc ngậm thuốc lào, nhón tay bốc cái kẹo lạc, cụ bỏ tót vào mồm nhai rau ráu, ngày rộng tháng dài, cụ không có việc gì mó tay mó chân vào hơn là nghĩ vẩn vơ, vơ vẩn…Cụ tự hào hãm khói thuốc được như cụ, từ huyện lên phủ không dễ có mấy tay. Cụ cũng tốn gần nửa đời người, mất quá nửa tư gia điền sản nhà cụ chứ đâu có bỡn. Hao tài tốn của đến như lúc này đây, thuốc sái nhì, sái ba, cụ phải trộn với thuốc tễ và cam thảo. Chứ đâu ai lại như ông nhà văn, nhà báo nào đó viết dấm dớ trong “Vang bóng…” một đời hay một thời gì ấy( nói kháy tác giả Nguyễn Tuân), là có một ông, vì nghiện trà tầu mà tiêu ma sự nghiệp, phải bán nhà bán ruộng. Và cụ chợt thở ra vì cụ cũng vừa nghĩ đến gia cang nhà cụ gần đây… Số là nhà cụ chẳng có đất ăn học, mả ông tằng bà cố cụ có táng hai con ngao bằng vôi vữa, nên dốt đặc cán thuổng như cụ chỉ ngoi đến lớp ba là hết đất, nhân đó mua được cái hàm “Cửu phẩm văn giai” của nhà nước Bảo Hộ. Cụ được xếp vào chiếu trên chiếu dưới với các quan viên ngòai đình, ngòai làng, năm này qua tháng nọ, hát xướng cô đầu, tổ tôm sóc đĩa với cụ tiên chỉ, cụ hàn. Thế nên ruộng cò bay thẳng cánh ở làng Bùi Trên của nhà cụ cứ rủ nhau đội nón mà đi, bề ngòai lúc này trông thì bảnh thật đấy nhưng chông chênh lắm vì nợ nần như chúa chổm. Thế nên sáng sớm chiều hôm, cụ cứ âu sầu nhân thế cùng cõi đời bèo nhèo như thịt trâu về chiều. Giỏ nào quai nấy, cụ cũng như bà, cụ đang âu sầu nhân thế đến ông con, cơ ngơi nhà cụ được coi gần như nước lã ra sông, tất cả nhờ vả vào thằng cả nhà cụ đang học ở trên huyện, sang năm mà ngáp ngáp được cái bằng tiểu học thì nhà cụ mới có cơ ngóc đầu lên nổi. Tiếp nữa, cụ sẽ gửi qua Nam Định học tú tài để bắt cái chân lý trưởng, bổng lộc với thuế điền, thuế trạch, đầu gà má lợn thì cứ ối ra đấy. Ấy lại quên, còn cái thuế thân nữa, nhà nước Bảo hộ đang tuyển dân đinh đi cạo mủ cao su ở bên Tân Thế Giới. Thế nào họ chẳng thậm thụt cổng trước cửa sau với ông lý, con cụ. Ối dào, được thời thì cụ lại vểnh râu tôm lên mấy hồi. Còn bà Cửu đang sôi tiết nhưng mặt tái dại như dây khoai kiệt nước thì chị phó nề, cái yếm khi không cũng lỏng…dây, tuột xuống cái rốn lồi bằng quả sung, cờm rớm để lộ cặp vú như hai quả mướp già, hai bầu vú xẹp lép, nổi gân xanh chằng chịt. Chị phó rèn xăn váy lên tận bẹn, cũng đầy gân xanh, gân nâu, chị cắt ngang sẻ dọc: Hôm nay tao chửi một, ngày mai tao chửi hai. Tao chửi cho chúng mày hóa điên hóa cuồng, tao rủa suốt tháng liên miên không ngừng, năm này qua năm nọ. Bây giờ tao mệt rồi, tao vào lo cơm nước cho con tao. Muốn sống thì phải thả gà tao ra, lạy tao hai lạy, tao tha cho mày. Nếu không, ngày mai tao tế sống chúng mày cho mà biết. Chúng mày hãy vén màng tai, gài mái tóc, chặt hàng rào cho thấp mà nghe tao chửi: Bớ con nào bắt gà nhà tao là chúa lộn chồng, thằng nào ăn gà nhà tao là đàn ông ba đời đi ở đợ, đẻ con không có lỗ đít. Bớ… Mặt trời đã ngả gần con sào, cuộc đối đáp đến hồi như phường chèo, khi chậm, khi nhanh, lúc ngừng, lúc nghỉ, lên cao, xuống thấp, lấy hơi kéo dài, thở ra ngắt quãng, vung tay đá chân đến gần giờ ngọ lúc nào chị phó rèn không hay. Chị cũng đã khản cổ, giọng rè đặc, tóc xổ ra, áo xống xộc xà xộc xệch, mồ hôi đầm đìa, mắt đỏ ngầu, sùi bọt mép thở hổn hển. Cũng ngay khi ấy, có tiếng gà gáy te te giữa trưa, bà Cửu nhớ lại các cụ dậy rằng, con gà biết những cái mà người không biết. Như gà biết gáy giờ tí, giờ dậu, gáy ròn rã là nắng, khào khào là mưa. Con người chỉ biết sau con gà là gáy giờ ngọ, thế nào trong làng cũng có đàn bà…chửa hoang và bà như vỡ nhẽ ra. Bà Cửu chợt nhớ ra chị hàng xóm đáo để tên Dần, thế là bà gân cổ lên báo đời cha con đĩ này biết tay bà. Bà lộn mề ứa gan, giật phắt cái khăn vuông vứt tọet xuống đất, bà muốn chửi vỡ làng vỡ nước, bà tế sống nhà chúng nó: “ Có là…là…hùm, là hổ thì cũng chui từ cái lỗ kín của đàn bà mà ra. Từ ông ba mươi đến con thối thây, thối xác cũng chẳng thóat được cái lỗ rò ấy. Đời con đời cháu nhà mày cũng ở cái giống ấy mà chui ra. Này, bà báo đời cho mày biết nhá, con đĩ gầy, đĩ rạc, con đĩ chửa hoang…” Nghe tiện nội cụ tế sống với lỗ này lỗ kia, cụ ngao ngán lắc đầu…Cụ lại ghĩ đến sính lễ với đôi gà trống thiến dạo đầu năm, cụ Cửu chợt nhíu mày như suy nghĩ gì nung lắm. Cụ đẩy đưa mênh mang, tháng mười chửa cười đã tối, hôm qua thằng cả khăn gói lên huyện trọ học, cái thằng ngỗng đực dở tây dở ta, nhếch nhác với áo dài “ba ga” cụt lủn ngang đầu gối, quần trúc bâu, đầu đội mũ “cô lô nhần” và nách kẹp kè kè đôi giầy “ca na” cũ rích của cụ đã vất xó từ lâu. Cái thằng con mà cụ vẫn bấm bụng thở dài sườn sượt rằng mai kia chả làm nên tam trạng gì sất, sau khi dòm thấy mắt vợ lại diện óach như cụ năm xưa, lâu lâu lại thậm thụt xuống làng Bùi Dưới điếu đóm, lúc rổ na, khi quả mít. Chả là như hồi hôm đây, nháo nhác một cái là nó cung cúc lỉnh ra đầu ngõ lúc nào không ai hay, trong cái nhá nhem của trời về chiều, cụ kèm nhèm thấy hình như trên vai đeo cái quai bị cói, người lom khom cong xuống phía đằng trước như dấu cái gì ấy, thóang như hai tay lum khum bê…cái bu gà thì phải. Mà khỉ thật, chẻ tre không bằng ve gái, ai lại thằng nỡm đi mò gái với con gà mái đẻ cơ chứ. Của đau con xót, chị phó rèn quay phắt ngược trở ra, ắt hẳn là bổ nháo bổ nhào ở đâu ra được câu chửi độc địa mới. Chẳng uốn éo vặn vẹo gì sất, chị bèn hóng mỏ qua giậu tre thưa, vớt vát câu chửi…tân thời: “ Cha năm đời mười đứa nào bắt gà của bà thì thò mặt ra nghe bà chửi thêm nhé! Mày bắt gà, mày vặt lông, mày luộc, mày nấu, mày nướng. Cho vợ, cho chồng, cho con, cho cái, khi khi khú khí với nhau nhá! Mày có khôn hồn thì trả ngay cho bà, nếu không ngày rằm, ngày một bà trồng cây chuối ngược, bà gọi thần trùng đỏ mỏ, mặt xanh nanh trắng đến bắt cả nhà mày đi! “ Chị phó rèn cắp cái nia lon ton đi vào, tiện nội cụ thóat nợ, rềnh ràng xuống bếp săm soi ba cái đầu rau với con dao, cái thớt. Cả không gian lặng ngắt như tờ, còn lại chỉ là tiếng rì rào của cỏ cây hoa lá. Bỗng con thạch thùng đi hoang tặc lưỡi một cái “tắc” như “sực tắc”… Chợt nhòm thấy mấy cái lá chanh đang ngả nghiêng trước gió, câu hò giọng hát “ Mày bắt gà, mày vặt lông, mày luộc…” thoang thỏang như tha thiết mời gọi đâu đây… Cụ như ngứa răng, cũng búng lưỡi chép miệng một cái “tách”. Cũng không dấu gì, chả là cụ lại muốn nghe chửi mất gà thêm nữa. Rõ chán thế đấy, hóa ra cụ nghiện nghe chửi như…nghiện thuốc phiện đấy thôi. Cụ chỉ sợ mai này chẳng được nghe chửi thì buồn… Giời ạ, buồn như trấu cắn.
|