Ði lấy chồng... gần |
Tác Giả: Huy Phương | |||
Thứ Hai, 29 Tháng 6 Năm 2009 02:55 | |||
Sau lần in cuốn tạp ghi “Ði Lấy Chồng Xa,” nhiều ông bạn đã hỏi đùa rằng, lúc nào thì có tập truyện “Ði Lấy Chồng... Gần” đây? Chuyện chơi mà không ngờ hóa thật, bây giờ con gái Việt Nam khỏi cần bôn ba kiếm chồng phương xa nữa mà sắp có chuyện lấy chồng gần... tại chỗ. Các ông cha bà mẹ không còn chuyện đưa con lên Saigon để theo gương bác “từ thành phố này người đã ra đi,” cũng như không còn trông ngóng tin con nơi xa nữa, mà lại “có bát canh cần nó cũng đem cho.” (1) Theo việc triển khai mỏ bô-xít tại Ðắc Nông, ngày nay tại Bảo Lộc, hàng quán phục vụ người Tàu đã mọc lên rất nhiều với các bảng hiệu song ngữ Việt-Tàu. Thị xã Bảo Lộc có khoảng 500 người Trung Quốc gồm các chuyên gia và công nhân đang phục vụ mỏ và cho biết khi nhà máy đi vào hoạt động sẽ có hơn 6,000 người Trung Quốc đến “đóng chốt” tại đây. Ðó là nơi mà Bộ Công Thương đã cho rằng “đã nhiều năm qua, Tây Nguyên tập trung phát triển tối đa cây công nghiệp, nhưng hiệu quả kinh tế còn hạn chế, đời sống đồng bào còn khó khăn, hạ tầng nghèo nàn, trình độ dân trí hạn chế.” Như vậy rồi đây, dân chúng cao nguyên hay cả nước, nơi dân cư nghèo đói, không có công ăn việc làm, sẽ đổ về đây để kiếm sống, bằng những dịch vụ, kể cả việc làm vợ hờ hay bán thân cho công nhân Tàu Cộng để kiếm sống. Bộ Công Thương cho rằng ở Tây Nguyên “trình độ dân trí hạn chế,” phải chăng hạn chế vì bị bưng bít thông tin, bị đàn áp, bị dối trá. Với trường hợp tương tự, cũng với hoàn cảnh này, tại đất nước Peru, chúng ta đã biết tin trong tuần qua, hàng ngàn người da đỏ võ trang lao nhọn đã chống lại lực lượng an ninh. Ðây là cuộc bạo động lớn nhất chưa từng có ở Peru kể từ thời kỳ nội chiến. Tổng Thống Alan Garcia bị những nhà lãnh đạo thiên tả Châu Mỹ La Tinh chỉ trích đã cho khai thác dầu hỏa và tài nguyên rừng Amazon làm thiệt hại môi trường và đe dọa đời sống của người da đỏ địa phương. Trong những ngày qua người da đỏ đã biểu tình, phong tỏa đường sá, sông ngòi, tuyên bố bảo vệ vùng đất của tổ tiên họ. Còn dân Tây Nguyên của chúng ta nghĩ gì, làm gì trước việc chính phủ Cộng Sản cho khai thác bô xít tại đây, hay dân chúng lại cho rằng đây là lúc họ có thể thoát ra khỏi cảnh nghèo túng nhờ sự hiện diện của ngoại quốc trên phần đất của họ, dù đây là thứ ngoại quốc “hạng bét”. Công nhân Trung Cộng hay lính Trung Cộng ngụy trang công nhân, đã làm đường xe lửa, đã khai thác bô-xít, rồi sẽ còn được “trúng thầu” dài dài nhiều công trình béo bở và chiến lược trên khắp mọi miền đất nước Việt Nam. Chúng sẽ tràn ngập khắp đất nước chúng ta như đã từng có thời “Ðoàn quân Tàu Ô đi...” của đám Lư Hán ở miền Bắc. Hải Phòng, Bình Dương đã có làng Trung Quốc. Không đâu xa, ngay tại Chu Lai, Quảng Nam có ngôi chùa Phú Sơn, thuộc Phật Giáo Thống Nhất Việt Nam, lâu nay vẫn thường bị công an theo dõi, rình rập, làm khó khăn, nhưng từ ngày vùng này có một làng “Trung Quốc” được dựng lên, công nhân Trung Quốc lui tới thăm viếng chùa, tặng những máy niệm Phật điện tử bằng tiếng Tàu cho Phật tử, thì công an coi bộ cả nể, không dám làm chuyện khó cho chùa nữa. Và những nhà có con gái là đối tượng cho công nhân Trung Cộng làm “dân vận,” lui tới thăm viếng. Hai trăm công nhân Trung Hoa tại nhà máy xi măng Nghi Sơn, Thanh Hóa chỉ vì một đụng chạm nhỏ với đồng bào của chúng ta, đã làm loạn kéo đến đập phá nhà dân, đánh người đến mang thương tích. Câu chuyện xẩy ra từ năm ngoái, nhưng bị bưng bít, tới nay mới đưa ra công luận vì lại xẩy ra một vụ công nhân Tàu tự ý bắt giữ tội phạm, đánh đập tra khảo mà không chịu giao cho công an địa phương giải quyết. Cũng tại Thanh Hóa, quanh nhà máy xi măng của Tàu tại huyện Tĩnh Gia, hàng quán, nhà nghỉ, quán cà phê, karaoke, dịch vụ điện thoại đã được mở ra và đàn bà Việt Nam đã bắt đầu bán thân cho ngoại bang ngay trên đất nước mình. Việt Cộng cũng sẽ mượn tay Tàu Cộng để bảo vệ ngôi vị tay sai độc đoán của mình. Vì nếu như có một cuộc nổi dậy của nhân dân Việt Nam, kể cả bộ đội Cộng Sản chống lại bọn cầm quyền, thì các lực lượng Tàu Cộng đã được ém trong nước đợi thời cơ và bọn bá quyền ở phương Bắc sẽ tràn xuống, lấy lý do bảo vệ cho kiều bào của chúng, không tiếc tay tàn sát các lực lượng nổi dậy, để bảo vệ cho đàn em trung thành. Lúc bấy giờ hiển nhiên Việt Nam sẽ là một Tây Tạng thứ hai của Tàu Cộng. Trang “Ðàn Chim Việt” đã cảnh cáo: “Ngày hôm nay, lực lượng công nhân và có thể là quân nhân Trung Quốc đang bắt đầu cắm vào địa bàn Tây Nguyên nói lên điều gì? Không cần phải là một nhà quân sự, ai cũng có thể đặt câu hỏi là nếu có một cuộc ngoại công của Trung Quốc từ các biên giới phía Bắc như Vân Nam, phía Tây như từ Lào, Campuchia, phía Ðông như từ căn cứ tàu ngầm Hải Nam, từ Hoàng Sa, Trường Sa kết hợp với cuộc nội công từ Tây Nguyên thì thử hỏi quân đội Việt Nam có thể cầm cự được trong bao lâu?” Nước mất nhà tan, phụ nữ Việt Nam lang thang xứ người hành nghề mãi dâm, nay lại làm đĩ cho ngoại bang trên đất nước mình. Trong thời kỳ Ðệ II Thế Chiến, gần 200,000 phụ nữ, chủ yếu từ Ðại Hàn và Trung Quốc, đã bị ép phục vụ tình dục với binh lính Nhật Bản trong các nhà chứa do quân đội Thiên Hoàng lập ra. Phụ nữ Việt Nam thời Pháp thuộc cũng có một số bán thân cho Pháp, thời chiến tranh Quốc Cộng vừa qua cũng có người cho Mỹ, cho Nga, nhưng trên đất nước Việt Nam ngày nay được gọi là độc lập tự do thì phụ nữ đã bị đẩy tới cảnh làm đĩ mười phương: Ðài Loan, Trung Quốc, Ðại Hàn, Nam Dương, Thái Lan, Nhật Bản và nhục nhã hơn nữa là Cam Bốt. UNICEF và Bộ Tư Pháp Việt Nam báo cáo trong năm 2005 có đến 400,000 phụ nữ và trẻ em Việt Nam bị bán ra ngoại quốc (10% của tổng số nạn nhân khắp thế giới). Câu nói bào chữa là sở dĩ Việt Nam “đạt tỉ lệ cao” là “vì hoàn cảnh nghèo khó, không có việc làm, thiếu học...” Trong năm 2000, có khoảng nửa triệu nạn nhân Việt Nam bị bán qua Trung Quốc, Macao, Ðại Hàn, Cao Miên, Thái Lan và nhiều nước khác. Năm 2003 phụ nữ Việt Nam bị bán đấu giá trên Ebay Taiwan Website với giá bắt đầu là $5,400. Trong năm 2005 nhiều thiếu nữ Việt Nam đã bị đem ra trưng bày như một món hàng, ngồi trong những tủ kính để khách qua lại lựa chọn trong Trade Fair ở Singapore. Một điều đáng buồn là theo thống kê của những tổ chức như International Organization Migration (IOM), Chab Dai, IJM... đang làm việc chống nạn buôn bán trẻ em ở Cambodia, thì tại Nam Vang, chỉ có khoảng một triệu dân, trong đó có khoảng 15 ngàn gái mãi dâm, thì đã có hơn phân nửa là thiếu nữ và trẻ em Việt Nam. Ai là kẻ sĩ phu yêu nước, ai là đồng bào xót xa cho ruột thịt, trước nạn nước này mà không khỏi chau mày, xót dạ. Ở miền Nam, cù lao Dung, nơi nước ngọt, vườn tốt, con gái đẹp đã được gọi là cù lao Ðài Loan, quê hương của những cô gái “đi lấy chồng xa.” Rồi đây, hết cảnh đi lấy chồng xa, chúng ta đã có làng bô-xít, làng Trung Quốc, phụ nữ Việt Nam sắp được đi lấy chồng gần, nếu bọn cầm quyền Hà Nội tiếp tục cho Trung Cộng khai thác bô-xít và mở ra những cơ hội cho người Tàu tràn vào đất nước, hèn nhát đưa đến chỗ làm nô lệ thực sự cho bọn bá quyền phương Bắc. Người dân cũng thức tỉnh nhưng bị chế độ trấn áp lâu ngày, tê liệt ý chí vì sợ hãi, tuyệt vọng và bị nguyên một guồng máy sẵn sàng nghiền nát mà không có lối thoát, biết nhục nhưng vẫn phải nhắm mắt đưa chân, vì quá đói nghèo tuyệt vọng. (1) Có gả thì gả chồng gần Có bát canh cần nó cũng đem cho” (ca dao)
|