Thẩm Phán Phan Quang Tuệ Gửi Luật Sư Nguyễn Đăng Trừng Chủ Nhiệm Đoàn Luật Sư Thành Phố Saigon |
Tác Giả: Thẩm Phán Phan Quang Tuệ | |||
Thứ Năm, 23 Tháng 7 Năm 2009 01:07 | |||
LTS: Chúng tôi hân hạnh đăng lá Thư Ngỏ dưới đây của Thẩm phán Phan Quang Tuệ, viết với tư cách là Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam California, gửi đến ông Nguyễn Đăng Trừng, Chủ Nhiệm Đoàn Luật Sư TP-Saigon. Sở dĩ có lá Thư Ngỏ này là vì – theo Thẩm phán Phan Quang Tuệ – «quyết định thu hồi chứng chỉ hành nghề luật sư của ông Lê Công Định ngày 29 tháng 6, 2009 của Ban Chủ Nhiệm Đoàn Luật Sư TP-Saigon đã khai tử ngành biện hộ vừa chớm nở, tự tạo thêm những khó khăn cho chính giới luật sư» Thử so sánh chế độ luật pháp hai miền trước năm 1975 Miền Nam Việt Nam đã trải qua hai chế độ Cộng Hoà từ năm 1955 đến năm 1975. Trong 20 năm ngắn ngủi, giữa chiến tranh và xáo trộn triền miên, và trong những điều kiện hết sức khó khăn, miền Nam Việt Nam đã thiết lập được những định chế lập pháp, hành pháp, tư pháp, đặt nền móng căn bản cho những sinh hoạt trật tự cần phải có của một tân quốc gia. Trong lãnh vực Tư Pháp đã có Tối Cao Pháp Viện, Toà Thượng Thẩm Sài Gòn và Huế, các Toà Sơ Thẩm tại các tỉnh. Tại Sài Gòn cũng như Huế đều có Luật Sư Đoàn với các Luật Sư Thủ Lãnh có uy tín. Miền Bắc lúc bấy giờ vẫn không có một hệ thống tư pháp ngoài Toà Án Nhân Dân Đặc Biệt thành lập theo Nghị Định ngày 2 tháng Ba, 1953 theo chánh sách cải cách ruộng đất, phân chia giai cấp Trí, Phú, Địa, Hào. Tiếp theo là Nghị quyết số 49 ngày 20 tháng Sáu, 1961 thành lập các Trung Tâm Cải Tạo. Hậu thân của Nghị Quyết này là Nghị Quyết số 76 ngày 25 tháng Ba, 1977 hợp thức hoá việc áp dụng các Trung Tâm Cải Tạo vào miền Nam Việt Nam. Theo dõi đời sống luật pháp tại Việt Nam hiện nay phải khách quan mà nhận thấy nền tư pháp nước nhà vẫn còn ở trong tình trạng sơ khai mặc dù chiến tranh đã chấm dứt gần 35 năm. Chiều ngày 27 tháng Chín, 2008 Đoàn Luật sư Hà Nội đã bầu ban Chủ nhiệm mới, đứng đầu là luật sư Nguyễn Trọng Ty, sinh năm 1929 tức là 80 tuổi. Chỉ hơn một tháng sau, ngày 12 tháng Sáu, 2009, luật sư Lê Công Định bị bắt. Ngày 18 tháng Sáu, công an công bố video clip hình luật sư Lê Công Định đọc bản nhận tội và xin Nhà Nước khoan hồng. Ngày 29 tháng Sáu, 2009, Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP Saigon ra quyết định xoá tên luật sư Lê Công Định khỏi danh sách của Đoàn Luật sư TP Saigon vì “đã có hành vi vi phạm pháp luật, đã bị cơ quan an ninh điều tra của Bộ Công an khởi tố và bắt tạm giam, đã vi phạm luật luật sư và Quy tắc đạo đức nghề nghiệp”. Ngày 30 tháng Sáu, đại diện Bộ Tư Pháp (??) đã tới nơi tạm giam ông Lê Công Định để tống đạt quyết định thu hồi giấy phép hành nghề của luật sư Lê Công Định. Quyết định nói trên của Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP Saigon là lý do dẫn đến lá thư ngõ này. Lá thư tuyệt đối không nhằm mục đích chính trị, đả kích chế độ hay “tuyên truyền, nói xấu nhà nước”. Mục đích thư ngõ này cũng chẳng phải để biện hộ cho luật sư Lê Công Định vì tôi tin rằng nhà nước rồi ra sẽ phải trả tự do cho ông ấy. Tổ chức chuyên nghiệp được công nhận là lớn nhất của Hoa Kỳ và của thế giới là American Bar Association [ABA]. ABA được thành lập năm 1878 tại New York, có hơn 400,000 luật sư hội viên, với trụ sở chính đặt tại Chicago, và văn phòng liên lạc tại Hoa Thịnh Đốn. Nhưng điều mà tôi muốn đề cập ở đây là điều khoản quy định về việc chấm dứt tư cách hội viên. Điều 3.3 (b) của Điều lệ và Nội quy của ABA nói như sau: Hẳn nhiên đây là một điều khoản của một Bản Điều Lệ của một tổ chức Mỹ. Nhưng ABA là một tổ chức đã hiện diện trên 130 năm. Điều lệ và nội quy sinh hoạt của tố chức này đã được thử thách qua thời gian. Và thực ra hầu như tất cả các tổ chức trên thế giới ngày nay đều theo những nguyên tắc tương tự khi quy định về vấn đề chấm dứt tư cách hội viên. Đó là khi hội viên bị tuyên án phạm một trọng tội, và bản án là án chung thẩm. Trong tất cả mọi trường hợp khác, hội viên bị đơn phải có cơ hội được biện hộ bởi luật sư trước khi bị kỷ luật. Dựa theo những nguyên tắc trên, quyết định thu hồi chứng chỉ hành nghề của luật sư Lê Công Định bởi Ban Chủ nhiện Đoàn Luật sư TP Saigon là một quyết định bất hợp pháp, và vì thế, vô hiệu. Luật sư Lê Công Định, cho đến nay, không bị tuyên án phạm tội bởi một bản án chung thẩm nào. Điều gọi là lời thú tội, trong khi bị can còn bị giam giữ, là môt lời thú tội bị xem như là ép buộc (confession by coercion, under duress) cho đến khi bản thú tội được kiểm chứng qua một cuộc đối chứng trong một phiên toà công khai. Những người thu âm và thu hình bản thú tội phải bị truyền ra toà, lý lịch (ngày sanh tháng đẻ, nghề nghiệp, hồ sơ hình sự) phải được kiểm chứng bởi luật sư biện hộ. Hai vị tướng công an phải ra toà để khai về lý do cuộc họp báo ngày 18 tháng Sáu. Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP-Saigon phải tự động (sua sponte) thu hồi cả quyết định lẫn lệnh tống đạt. Chờ cho đến khi hoặc có bản án chung thẩm, hoặc nếu không, khởi sự lại từ đầu thủ tục tống đạt. Kết luận, ông Lê Công Định vẫn giữ toàn quyền hành nghề luật sư theo luật lệ hiện hành tại Việt Nam. Theo hai cuộc họp báo của Công an vào ngày 13 và 18 tháng Sáu, 2009 thì luật sư Lê Công Định ‘‘đã âm mưu lật đổ nhà nước bằng phương pháp bất bạo động và lợi dụng việc biện hộ của thân chủ để nói xấu Nhà Nước’’. Điều 88 thuộc trong 15 điều khoản trong Chương XI quy định về các «tội xâm phạm An ninh Quốc gia’’ của Bộ Luật Hình Sự. «An ninh Quốc gia” là nhóm danh từ được các chế độ cộng sản sử dụng như là một tấm chắn che chở và bảo vệ chế độ. Nhận xét này là sự thật đã được lịch sử cận đại chứng minh, không phải là tuyên truyền nói xấu chế độ. Luật pháp cộng sản, hay xã hội chủ nghĩa dưới thời Stalin ở Nga sô, Honecker ở Đông Đức, Jaruzelski ở Ba Lan, Fidel Castro ở Cuba, Daniel Ortega ở Nicaragua, Milos Jakes ở Czecholovakia, Nicolae Ceaucescu ở Romania, Mao Trạch Đông ở Trung quốc, và Hồ Chí Minh và những người kế vị hiện nay ở Việt Nam đều rập khuôn như nhau. Tuyệt đại đa số các chế độ trên đã sụp đổ, những điều khoản tương tự như điều 88 đã lỗi thời, ngoại trừ trường hợp thiểu số rất nhỏ trong đó có Việt Nam. Tục ngữ luật pháp La Tinh có câu ‘‘Nulla Poena Sine Lege’’. Luật sư chủ nhiệm đã từng theo học tại Đại Học Luật Khoa Saigon trước đây chắc còn nhớ nguyên tắc hình luật căn bản này. ‘‘Pas de peine sans lois.’’. Không có luật pháp thì không có tội. Vấn đề của điều 88 là tính cách quá mơ hồ của điều khoản này. Thế nào là tuyên truyền chống Nhà Nước? Thế nào là tuyên truyền phỉ báng? Thế nào là tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý gây hoang mang trong nhân dân? Hình luật là một lãnh vực mà hình phạt là lấy đi tự do và cả đời sống của con người, không thể được điển chế một cách tổng quát, mơ hồ và xử dụng như một màng lưới để Nhà Nước tùy tiện xử dụng nhằm bịt miệng người dân. Trong lãnh vực luật quốc tế về nhân quyền, có hai quyền được công nhận, đó là quyền tự do lập hội và quyền tham dự vào các hoạt động của nhà nước. Điều 20 (1) của Tuyên Ngôn Quốc Tế và Nhân Quyền (The Universal Declaration of Human Rights) nói như sau: ‘‘Everyone has the right to peaceful assembly and association.’’ Điều 21 (1): ‘‘Everyone has the right to take part in the government of his country….’’ Điều 21 (3): ‘‘The will of the people shall be the basis of the authority of government.’’ Điều 11 của Hiệp Định Paris ngày 27 tháng Giêng, 1973, viết như sau: ‘‘Immediately after the cease-fire, the two parties will achieve national reconciliation and concord, end hatred and emmity, prohibit all acts of reprisal and discrimintion against individual or organization that have collaborated with one side or the other ; ensure the democratic liberties of the people: personal freedom, freedom of speech, freedom of the press, freedom of meeting, freedom of political activìties, freedom of residence, freedom of work, right to property ownership and right to free enterprise. » Trong chương XI của Bộ Luật Hình Sự nói về các tội xâm phạm an ninh quốc gia thực ra chỉ có một điều khoản là được viết khá rõ ràng. Đó là điều 81 quy định tội xâm phạm an ninh lãnh thổ. Điều này phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, hoặc tù chung thân «những người nào xâm nhập lãnh thổ, có hành động làm sai lệch đường biên giới quốc gia, hoặc có hành động khác nhằm gây phương hại cho an ninh lãnh thổ...’’. Đường biên giới quốc gia đã bị làm sai lệch, lãnh thổ, lãnh hải đang bị xâm nhập mà sao không thấy những giới chức có trách nhiệm bị truy tố, lại truy tố những kẻ muốn hành xử quyền phát biểu ý kiến những vấn đề trọng đại chung của đất nước? Những bằng chứng dùng để bắt giam và buộc tội Luật Sư Lê Công Định còn có việc Luật Sư Định bị tố cáo đã ‘‘lợi dụng việc biện hộ cho các thân chủ để nói xấu Nhà Nước’’! Xem như thế, không thể nào buộc tội một luật sư đã: ‘‘lợi dụng việc biện hộ để nói xấu Nhà Nước’’ được. Vì nếu như vậy thì bỏ luôn vai trò biện hộ cho xong. Nếu chấp nhận lời tố cáo của công an là luật sư Lê Công Định vi phạm điều 88 vì ‘‘đã lợi dụng biện hộ cho thân chủ để tuyên truyền nói xấu Nhà Nước’’ thì quý vị đã biến công an thành công tố, biến công tố thành xử án, và tự hủy vai trò biện hộ của tất cả luật sư trong nước từ Nam chí Bắc. Trong một bài diễn văn đọc trước Luật Sư Đoàn Hoa Kỳ ngày 12 tháng 2, 1984, Thấm Phán Tối Cao Pháp Viện Warren E. Burger, Chủ Tịch TCPV lúc bấy giờ đã nói như sau: Đoàn Luật Sư TP-Saigon cần thu hồi ngay quyết định rút giấy hành nghề của Luật Sư Lê Công Định.
|