Trung Quốc: Đông Châu Liệt Quốc? |
Tác Giả: Mai Thanh Truyết | |||
Thứ Sáu, 31 Tháng 7 Năm 2009 07:03 | |||
Vào ngày 23 tháng giêng năm Quý Tỵ 2013, Vân Nam cử hành kỷ niệm đệ nhứt chu niên ngày thành lập nước Cộng Hoà Vân Nam. Chỉ cách một năm trước đây, Vân Nam vẫn còn là một vùng tự trị (autonomous region) của TC. Xin có vài hàng về tân quốc gia nầy: Cộng Hoà Vân Nam (Yunnan) chiếm diện tích 394.100 Km2 nằm trên một vùng đất cao nguyên có độ cao trên 7.000 m so với mât biển, giáp ranh với Miến Điện, Lào và Việt Nam. Núi non che phủ cả ba phía Bắc, Đông và Tây. Chỉ có bình nguyên phía Nam xuống tận biên giới Việt Nam mà thôi. Thủ đô là Kunming, tiếng Việt là Côn Minh với diện tích 6.200 Km2. Nhiệt độ trung bình là 65oF cho nên được mang tên là “thành phố mùa xuân vô tận” (eternal spring). Về dân số, với tổng cộng 44 triệu theo thống kê năm 2008, trong đó có 10% là người thiểu số mà người Hồi Hột chiếm đa số (dân tộc chính ở Tân Cương, nơi đã xảy ra cuộc xung đột Hán-Hồi vào tháng 7, 2009). Một yếu tố quan trọng là việc chênh lệch về giới tính của quốc gia nầy rất trầm trọng, nghĩa là tỉ lệ đàn nam/nữ chiếm 110/100. Về trình độ dân trí, có 50% dân số tốt nghiệp trung học phổ thông tức lớp 12. Nguồn lợi chính của quốc gia nầy là trồng trọt và chăn nuôi gia súc như gà, bò heo và sữa. Năm 2008, mức thu hoạch của kỹ nghệ nầy đem lại cho quốc gia 30 tỷ Mỹ kim năm 2008 và tăng vọt lện gấp đôi năm 2012. Nguồn nguyên liệu khoáng sản rất quan trọng vì những nguồn khoáng sản nầy không chứa sắt do đó việc tẩy rữa quặng mõ và tinh chế tương đối không phức tạp và giá thành rẽ hơn cũng như việc bảo quản an toàn môi trường ít tốn kém hơn các quặng mõ có chứa chất sắt. Công nghệ hoá chất, điện tử cùng nguyên tử …nói chung là công nghệ cao cấp đang trên đà nhảy vột phi mã, từ năm 2005, sản phẩm tạo dựng là 20 tỷ Mỹ kim, tăng lên 50 tỷ cho 2008 và 100 tỷ cho năm 2012. Tính đến năm 2008, Những New Technology Industrial Devolopment Zones (Vùng phát triển công kỹ nghệ mới) chiếm trên 3000 công ty, trong đó phân nửa là các công ty nước ngoài đầu tư vào. Và hiện tại, con số trên đã tăng gấp đôi. Hàng ngày mức nhập cảng dầu thô để dùng cho phát triển là 1 triệu tấn cho năm 2008, và gần 1,5 triệu tấn cho năm 2010. Qua những dữ kiện khách quan nêu trên của tân Cộng Hoà Vân Nam, việc chuyển vận hàng hoá xuất nhập cảng và trao đổi thương mại với các quốc gia là một chính sách quốc gia của những nhà làm kế hoạch của đất nước nầy. Ngoài ra việc giải quyết nạn trai thừa gái thiếu cũng là vấn đề lớn làm bận tâm những nhà làm kế hoạch gia đình. Do đó, ngay khi còn nằm trong thời kỳ “vùng tự trị” của chính phủ trung ương Bắc Kinh, Vân Nam đã cố gắng mở rộng mạng lưới giao thông trên mọi khía cạnh để hạn chế một số “cọ sát” tế nhị với các tỉnh từ Tây sang Đông xuyên qua lục địa Trung Quốc để tiếp cận với thế giới bên ngoài. Các cọ sát nấy phát sinh ra từ sự khác biệt chủng tộc mặt dù trên lý thuyết, tuyệt đại đa số dân số đều là người Hán nhưng không cùng một tiếng nói nếu không trao đổi bằng tiếng chính thức của Bắc Kinh là tiếng Quan thoại. Sự cọ sát còn nảy sinh qua sự cạnh tranh trong phát triển và phân phối giữa các tỉnh với nhau. Thực sự điều nầy đã có sẳn từ ngày Mao Trạch Đông gồm thâu nước Trung Hoa từ năm 1949, và luôn luôn tiềm ẩn trong đầu của người dân địa phương ở mỗi tỉnh. Tất cả sự “hiệp nhứt” trên chỉ là một sự thống nhứt không bền vững qua việc kiểm soát chặt chẽ của quân đội và công an của chính phủ trung ương. Tuy nhiên, sự thống nhứt trên chỉ là một giai đoạn tiềm ẩn cho các sự xáo trộn sau nầy qua hai sự kiện Tây Tạng và Tân Cương (chiếm gần 3/5 tổng diện tích đất đai Trung Hoa và có nguồn khoáng sản dồi dào hơn các tỉnh khác). Vân Nam thành công trong việc tách rời Trung Hoa và tuyên bố độc lập là do sức mạnh kinh tế và tinh thần dân tộc của người địa phương mà Bắc Kinh gọi là dân tộc thiểu số qua nhiều chiến dịch di dân người Hán từ những năm 1949 trở đi do chính sách Hán hoá và đồng hoá do Mao Trạch Đông chủ trương. Và Cộng Hoà Vân Nam đã thực hiện thành công nhiều công trình trong kế hoạch “mở cửa” xuối Nam để tiếp cận vời thế giới bên ngoài đặc biệt là Việt Nam. Con đường xe lữa Côn Minh – Lào Kay – Hà Nội: Con đường nầy đã được khánh thành vào giữa năm 2008. Tuy là con đường Trung - Việt nhưng chỉ cho xe lữa TC di chuyển mà thôi vì đầu máy xe lữa Việt Nam không đủ kích thước để sử dụng. Từ đó, hàng hoá lậu và cả người Tàu di dân không cần hộ chiếu cũng xâm nhập vào nội địa Việt Nam bằng phương tiện nầy. Một thiểu số không nhỏ người Việt, tức con buôn cũng lợi dụng đường xe lữa nầy để buôn lậu vì nhiều lợi thế: 1- Tránh được hải quan vì hải quan Việt Nam không có quyền hạn gì cả trên “tài sản và phương tiện” của đàn anh nước lớn; 2- Con buôn được hưởng nhiều quyền lợi như có hướng dẫn, có cò để giúp đở trong việc mua bán hàng hoá và làm thông dịch; 3- Hiện có những lớp huấn luyện “cò” mở ra tại Côn Minh để giúp đám con buôn nầy. Và dĩ nhiên, đất nước Việt Nam phải gánh chịu nhiều đắng cay qua “con đường tơ lụa Trung - Việt” nầy. Có thể nói, hầu hết sản phẩm may mặc, đồ chơi, thực phẩm, trái cây, thực phẩm… bị chối bỏ vì chứa hoá chất độc hại ở thị trường Hoa Kỳ và Âu châu đầu đổ dồn về Việt Nam. Từ đó lần lần tiêu diệt các sản phẩm nội hoá tạo ra một sự xáo trộn thị trường lao động và một số kỹ nghệ ở trong nước như may mặc, chăn nuồi, trồng tỉa. Kể từ năm 2008 trở đi, những mặc hàng kể trên ngày càng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam và càng xuôi Nam cho đến tận cùng miền đất nước và vùng Cao nguyên. Một thí dụ điển hình là tại chợ Đà Lạt, hàng may mặc đầy rẩy và được bán với giá rẻ mạt. Một chiếc áo gió bán chỉ với giá 15 ngàn Đồng, trong lúc một chiếc áo tương đương dệt ở nội địa giá cả không dướ 3, 4 chục ngàn. Chỉ nội cái fermeture cũng đã bán trên dưới 15 ngàn rồi. Con đường Đông Trường Sơn còn được gọi là xa lộ Trường Sơn hay đường mòn HCM , hay quốc lộ 14 (thời VNCH) chạy xuyên suốt từ Bắc chí Nam từ Quảng Bình trở đi cắt ngang xa lộ số 9 (sẽ nói ở phần dưới), qua Khe Sanh, A Lưới ở địa phận tỉnh Thừa Thiên. Tiếp theo là trị trấn Prao, Khâm Đức thuộc địa phận tỉnh Quảng Nam. Tiếp tục xuôi Nam, đường nầy xuyên qua nhiều tthị trấn của tỉnh Kontum như Đắk Giai, Plai Cầm, Tân Cảnh, Đắk Tô, Đắk Hà và thị xã Kon Tum. Tiếp đến tỉnh Pleiku gồm thị trấn Phú Hoà, Pleiku, Chu Sè trước khi đi vào địa phận của tỉnh Đắk Lắk xuyên qua các thị trấn Ea Drăng, Ban Mê Thuộc, Ea T’ling. Sau đó, con đường tiếp tục vào địa phận tỉng Đắk Nông xuyên qua Đák Mil và Nhân Cơ. Suốt chặng đường xuôi Nam kể trên, những thị trấn trên ngày càng tiếp cận một số lượng không nhỏ người di dân từ Vân Nam qua cũng như hàng hoá và những dịch vụ nhu nhà cửa, hàng quán, thậm chí những nơi không giải trí không lành mạnh cũng mọc lên như nấm. Xe cộ chở hàng 35 tấn dập dìa ở cả hai chiều. Các cửa hiệu, thậm chí những tên đường đôi khi viết bằng tiến Vân Nam… Đặc biệt hơn hết là thị trấn Nhân Cơ có thể được xem như bị Hán hoá hoàn toàn. Thỉnh thoảng chỉ còn thấy một vài người thiểu số thả bộ dọc theo hay bên đường rực đầy ánh sáng với nhiều đèn màu về đêm nói lên tòam cảnh hoang tàn so với thời xa xưa của 15 sắc dân thiểu số hiện diện trên mãnh đất Hoàng triều cương thở hàng ngàn năm qua. Cũng cần thêm một chi tiết nhỏ là có thêm một con đường ĐôngTây trong nội địa Việt Nam là đường số 27 bắt đầu từ Ninh Thuận (Phan Rang) đã được nối dài đến Nhân Cơ xuyên qua Đà Lạt và khánh thành đúng ngày quốc khánh của CH Vân Nam năm nay. Con đường Tây Trường Sơn cũng cần nêu ra đây với quốc lộ 13 nối liến biên giơi Lào với Vân Nam, xuyên qua Sawanakhet đến tận biên giới Cambodia đã được Vân Nam viện trợ và khánh thành vào tháng 12 năm 2008. Tiếp theo là quốc lộ số 7 tiếp nối xuyên qua Nam Vang và đổ ra hải cảng Sihanoukville, cũng được khánh thành vào năm 2010. Hai con đường nầy cũng rộn rịp không kém đường Đông Trường Sơn với lượng xe vận tải hạng nặng dập dìu chuyển hàng hóa từ Vân Nam ra thế giới qua hải cảng Sihanoukville nầy. Trở qua con đường Đông Tây chiến lược, đó là con đường số 9 bắt đấu từ Quảng Trị qua Khe Sanh, Schepone, Sawanakhet và xuyên qua địa phận Thái Lan. Để rối cuối cùng dừng lại ở hải cảng Mawlamyine nằm ở phía Tây Thái Lan. Tóm lại, qua sự phát triển những con đường Bắc Nam qua ngõ Việt Nam, Lào Thái Lai và Cambodia, cũng như việc nạo vét lòng sông Cửu Long từ biên giới Vân Nam đến tận biện giới Cambodia khiến cho tỉnh Vân Nam mạnh dạn tách rời chính phủ trung ương Bắc kinh để thành lập Cộng hoà Vân Nam với trọng tâm chuyển hướng phát triển kinh tế quốc gia trong tinh thần kinh tế thị trường và phát triển trong chiều hướng ứng hợp với tiến trình toàn cầu hoá. Riêng đối với Việt Nam, một quốc gia chịu ảnh hưởng nhiều nhứt và bị ảnh hưởng lên nhiều mặt, đặc biệt là tiến trình Hán hoá của của TC. Mặc dù không còn chịu áp lực của Bắc Kinh, nhưng người Vân Nam vẫn còn ẩn dấu một não trạng là luôn luôn muốn đồng hoá và thôn tính Việt Nam. Não trạng nầy thể hiện ngay từ những ngày lập quốc của Việt Nam. Ở vào thời điểm nầy, Vân Nam càng muốn tiến hành khẩn cấp những âm mưu Hán hoá vì lý do vừa là sắc tộc (đồng hoá) vừa là giải toả áp lực của tình trạng trái thừa gái thiều của quốc gia nầy. Và cho đến hôm nay, có thể nói họ đã gần như đồng hoá hoàn toàn người Thượng qua việc khai thác hai công trình Nhân Cơ và Tân Rai và nhiều nơi khác ở tỉnh Đắk Nông. Tại những nơi nầy, những cuộc hôn nhân dị chủng giữa người Thượng và Hán xảy ra rất nhanh qua những khuyến dụ về hàng hóa, thực phẩm v.v… Những nơi nào có bước chân của họ, thì từ địa hình, địa vật, và tất cả bộ mặt còn lại của cộng đồng bản xứ đều bị thay đổi hoàn toàn và có thể nói trong hổ thẹn là đã có thêm một thị trấn, một thành phố Tàu mới trên mãnh đất Việt Cơn mê của người viết chợt bừng tỉnh với tiếng hét: NGỘ TẢ NỊ SẨY! Mai Thanh Truyết Ghi Chú: Bài viết nầy dựa theo những dữ kiện và sự kiện có thật đã và đang xảy ra cho Vân Nam. Tác giả đưa ra những viễn kiến có thể xảy ra cho đất nước nầy để từ đó chúng ta có thể hình dung một cách rõ ràng áp lực và âm mưu Hán hoá Việt Nam của TC là một âm mưu có thật để mỗi người trong chúng ta suy gẫm thêm.
|