Về cuộc điện đàm với tiến sĩ Đỗ Xuân Thọ |
Tác Giả: Bằng Phong | |||
Thứ Ba, 20 Tháng 4 Năm 2010 09:32 | |||
Cái thiên đàng xã hội chủ nghĩa do ông Nguyễn Tất Thành hứa hẹn là một địa ngục trần gian Tác giả Bằng Phong (trái) và TS Đỗ Xuân Thọ Tối Thứ Năm tuần trước (ngày 8 tháng 4), nhận được Thư Gửi Ban Chấp Hành Trung Ương của Tiến sĩ Đỗ Xuân Thọ, đọc xong, tôi liền làm hai việc: thứ nhất, chuyển bài viết của Thọ đến trang mạng troinam.net để nhờ Trang Chủ phổ biến ngay, vì độc giả trong nước không bị tường lửa khi vào trang mạng này; thứ hai, gọi điện thoại cho Đỗ Xuân Thọ để cổ vũ tinh thần tác giả. Nhận xét đầu tiên của tôi là Tiến sĩ Đỗ Xuân Thọ cũng toát ra sự nồng nhiệt, hăng hái với Đất Nước giống như Luật sư Cù Huy Hà Vũ. Tuy không phải là luật sư, Thọ tỏ ra khá hùng hồn như Vũ. Đó là dấu hiệu đáng mừng. Ước mong sao trong nước càng ngày càng có nhiều tiếng nói mạnh mẽ như Hà Vũ, Xuân Thọ cất lên. Thọ cho biết: Anh là chiến sĩ cao xạ (đội phòng không) tại chiến trường Quảng trị. Một lần đang lau súng, bất ngờ súng cướp cò và trúng ngay viên xạ thủ trực thăng của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa bay ngang. Lần khác, bắn rơi một phi cơ chiến đấu của Không Quân Mỹ. Tôi cũng cho Thọ biết: Tôi là “giặc lái” của Không Quân “Ngụy”, từng có mặt trên chiến trường Quảng trị vào Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, may mắn không bị Thọ bắn hạ, nên anh em ta còn có thể trò chuyện với nhau hôm nay. Thọ nói: “Thôi đi, anh Bằng Phong ơi! Bây giờ anh còn châm biếm những từ “giặc lái”, “ngụy” làm gì? Đó là những sự lầm lẫn của quá khứ”. So tuổi tác, Thọ mới 56 và tôi đã 70, nên chàng nhận tôi làm anh và xưng em một cách thân ái như không hề có sự cách biệt lằn ranh, chiến tuyến. Một nhận xét khác: Cù Huy Hà Vũ trong lời phát biểu với đài RFA về việc anh gửi thư yêu cầu Quốc Hội dựng bia tưởng niệm chiến sĩ Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa hy sinh trong trận hải chiến chống Trung Cộng năm 1974 và chiến sĩ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa hy sinh trong trận hải chiến chống Trung Cộng năm 1988; Đỗ Xuân Thọ lau súng bị cướp cò, chẳng may trúng viên xạ thủ Không Quân Việt Nam Cộng Hòa. Điều đó chứng tỏ tư duy của những nhà phản kháng trong nước đã nhìn nhận ở Miền Nam có một chính thể Cộng Hòa, chứ không còn bị ám ảnh bởi những danh từ Ngụy quân, Ngụy quyền có tính miệt thị như trước nữa. Nói gì thì nói, cuộc nội chiến vừa qua đã để lại trong tâm khảm mỗi phía những ấn tượng khó lòng gột rửa, dù tiếng súng đã ngưng ba mươi lăm năm. Nếu hai phía chịu khó “dịu giọng” (tone down) một chút thì cuộc đối thoại dễ dàng cảm thông nhau hơn. Tôi nói với Thọ: “Mỗi lần đọc một bài viết hoặc nghe một phát biểu đòi Tự Do Dân Chủ từ trong nước, anh đều tìm cách liên lạc bằng email hay bằng điện thoại để cổ vũ tinh thần, như là một hình thức bơm năng lực cho người dũng cảm”. Thọ cảm ơn sự quan tâm của tôi, nhưng thẳng thắn phê bình: “Em đã đọc những bài viết của anh, biết anh là người có tâm với Đất Nước, nhưng có điều anh chẳng hiểu gì về tình hình trong nước, nên gây phản cảm. Người ta muốn chuyền tay nhau đọc bài viết của anh, nhưng người ta ngại”. Tôi hỏi: “Điều gì anh viết gây phản cảm?” Thọ đáp ngay: “Đối với quần chúng Việt Nam, họ xem ông Hồ Chí Minh như bậc Thánh. Em cũng xem ông Hồ là một vị Thánh. Anh tấn công vào thần tượng của họ là bài viết của anh mất tính thuyết phục. Em chống lại chủ nghĩa Mác-xít vì cái chủ nghĩa ấy đã lỗi thời, gây khốn đốn cho dân tộc. Với em hôm nay, chẳng cần chủ nghĩa Cộng sản hay Tư bản, chỉ có chủ nghĩa dân tộc mà thôi!”. Mục đích cú điện thoại tôi gọi cho Thọ là để cổ vũ sự dũng cảm của Thọ, nên tôi không tranh luận, cứ để yên cho Thọ trút hết những ẩn ức mà anh nung nấu trong lòng. Thọ tiếp: “Em không chấp nhận đa nguyên đa đảng trong tình hình này. Nhìn sang Thái Lan, anh thấy nhóm “Áo Đỏ” gây rối ra sao chưa? Mọi sinh hoạt xã hội, chính trị đều tê liệt. Mình đòi đa đảng có mà loạn à? Độc đảng thôi, nhưng tiên quyết là phải từ bỏ chủ nghĩa Mác-xít! Để bảo vệ chủ quyền dân tộc, chúng ta cần liên minh với thế giới tự do. Hoa Kỳ là đồng minh số 1 (một), Nhật Bản là đồng minh số 2 (hai) và EU là đồng minh số 3 (ba). Khẳng định là như thế! Bảo đảm với anh rằng hơn tám mươi phần trăm (80%) đảng viên thuộc lứa tuổi của em đều nhận thấy chủ nghĩa Mác là sai lầm, nhưng họ chưa lên tiếng như em vì họ còn bị những vướng mắc về gia đình, về đời sống riêng tư. Ngay cả người cầm quyền cũng thấy sai lầm!” Tôi cũng không tranh luận với Thọ, bèn nói: “Được rồi! Chúng ta sẽ trao đổi nhau về những vấn đề liên quan sau này. Thọ đã viết thư kêu gọi nhà cầm quyền phải dứt khoát từ bỏ chủ nghĩa Mác là một bước tiến quan trọng rồi”. Thọ dặn: “Anh có điều gì muốn nói, hãy email cho em. Chỉ điện thoại khi nào có việc cần kíp mà thôi, bởi vì họ bắt đầu theo dõi sát em”. Tôi hứa với Thọ sẽ làm theo yêu cầu. Cảm tưởng sau cùng của tôi qua cuộc điện đàm với Tiến sĩ Đỗ Xuân Thọ: Anh có bản tính của một quân nhân yêu nước, nói thẳng điều mình nghĩ mà không ngại ngùng bị kẻ khác phê bình. Có lẽ dân nhà binh, dù ở phía nào, cũng có điểm tương đồng về sự trực tính, nên rất dễ cảm thông nhau. Nói chuyện với Thọ khiến tôi nhớ lần nói chuyện điện thoại đầu tiên với anh Vũ Cao Quận. Lại thêm, ở cuối bài viết, anh Thọ cũng giống như anh Quận, ghi rõ địa chỉ nhà, email và số điện thoại. Trái lại, ở hải ngoại chẳng ai bị đàn áp, thì có những phần tử bàn việc nước non mà giống như kẻ cắp bàn tính nhau chuyện đi ăn trộm, tự đặt ra tên ma và dùng lời lẽ của bọn đầu đường xó chợ! Thật đáng tiếc! Thọ lên án chủ nghĩa Mác, nhưng không đồng ý người nào công kích kẻ du nhập chủ nghĩa đó vào Đất Nước. Phản ứng của một số nhà dân chủ ở quốc nội cũng có những suy nghĩ giống như của Tiến sĩ Đỗ Xuân Thọ. Bà con, bạn bè của tôi trong nước sau khi đọc những bài nhận định của tôi về Hồ Chí Minh Nguyễn Tất Thành thì có người chấm dứt liên lạc, có người khuyên tôi không nên về thăm họ, mặc dầu trước đó họ đã thân ái rủ tôi về trước khi nghìn thu vĩnh biệt. Họ sợ bị liên lụy hay họ vẫn yêu ông Hồ? Sau cuộc điện đàm với Thọ chấm dứt, tôi gọi điện cho Hà Sĩ Phu. Vừa nghe tiếng “Allo” từ phía đầu dây bên kia, tôi nói ngay: “Hà Tiên sinh mới có thêm một đệ tử nữa đấy!”. Nhận ra giọng nói của tôi, anh hỏi: “Tôi có thấy đệ tử nào đâu?”. Tôi giải thích: “Bức thư của Tiến sĩ Đỗ Xuân Thọ tôi mới chuyển cho anh là bằng chứng anh có thêm một đệ tử. Yêu cầu của Tiến sĩ Thọ đòi hủy bỏ chủ nghĩa Mác chẳng có gì mới lạ, vì anh là người đã dóng lên tiếng chuông “Chia Tay Ý Thức Hệ” từ hơn hai thập niên trước, nhưng nay tiếng chuông ấy mới dần dà có tiếng dội (echo) trong hàng ngũ Đảng. Giá như lãnh đạo cộng sản không mắc chứng điếc, nghe lời anh từ bấy giờ thì ngày nay biển, đảo đã không mất vào tay quân xâm lược Tầu”. Tôi còn nói với anh Hà Sĩ Phu nhiều chuyện lang mang ngoài luồng, chợt nghe tiếng “click” báo hiệu có người đang nghe trộm, liền vội vàng từ giã. * * * Tôi từng khẳng định số phận dân tộc Việt Nam là số phận con rệp, số phận ăn mày. Oan nghiệt lịch sử đã xảy ra, người đời sau không có cách gì thay đổi, nhắc lại là để cảnh giác lẫn nhau đừng đi vào vết xe cũ. Giá như Tưởng Giới Thạch đánh bại Hồng Quân Mao Trạch Đông, Cộng sản Trung Hoa tan tành, điều chắc chắn là Cộng sản Việt Nam không thể nào thắng Thực dân Pháp trong cuộc chiến tranh Đông Dương, dù nhân dân Việt Nam được lãnh đạo bởi một vị Thánh có nhiều mưu lược. Tôi không hề miệt thị ông Nguyễn Tất Thành bằng những lời lẽ hằn học, hạ cấp. Tôi chỉ nêu lên tội ác của ông do bằng chứng lịch sử lưu lại và tôi xác nhận ông chỉ là một sản phẩm tai hại do thời thế đẻ ra. Hoang Giáp Nguyễn Khắc Niêm, Quan Tế tửu trường Quốc Tử Giám, một vị quan vô cùng thanh liêm chuyên trách ngành giáo dục, bị đấu tố cho tới chết do chính sách Cải cách ruộng đất của ông Nguyễn Tất Thành. Thế mà ông con là bác sĩ Nguyễn Khắc Viện vẫn không đau xót trước cái chết của Cha Đẻ mình, lại cúi đầu phụng sự “Cha Già Dân Tộc”. Ai có thể giải thích cho tôi sự kiện tai quái đó? Thôi thì tạm tin rằng ông Nguyễn Khắc Viện và nhiều nhà trí thức trở thành đàn cừu, bị thôi miên vì nỗi khát khao “Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc”. Nhưng ngày nay, cái thiên đàng xã hội chủ nghĩa do ông Nguyễn Tất Thành hứa hẹn là một địa ngục trần gian bị thống trị bởi một tập đoàn gian tham, dối trá, ươn hèn trước sự hống hách của kẻ thù Phương Bắc, tại sao vẫn có người thông minh, đỗ đạt Tiến sĩ như các ông Nguyễn Trần Bạt, Đỗ Xuân Thọ vẫn coi ông Hồ Chí Minh như một bậc Thánh? Tôi chỉ là người dân tầm thường, chẳng có bằng Tiến sĩ, xin nêu lên một thắc mắc với quý vị như sau: “Chúa Jesus về Trời, Ngài để lại hậu thế những đệ tử như Thánh Paul, Pierre, Matthew, Baptist … Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn thì có Ngài Ca Diếp và vô số vị Phật, Bồ Tát nối nghiệp; Thánh Gandhi thì có Jawaharlal Nehru. Tại sao ông Thánh Hồ Chí Minh không để lại một Người Hiền nào cả, mà chỉ toàn một bọn sâu dân mọt nước, mãi quốc cầu vinh, điêu ngoa, nói một đường làm một nẻo, ngồi trên luật pháp, cai trị bằng một lũ côn đồ đánh đập dân oan, giáo dân giống như Đội Cải Cách năm xưa vậy? Nếu tôi lấy câu ‘Cha nào con nấy’, ‘Nhìn hậu quả, thấy nguyên nhân’ để giải thích thì những vị Tiến sĩ còn mắc chứng bệnh sùng bái lãnh tụ trả lời ra thế nào đây?”. Tôi nêu câu hỏi trên với các vị Tiến sĩ, bởi vì tôi quan niệm rằng họ là chất xám, là cái đầu của dân tộc. Nếu “cái đầu dân tộc” còn lúng túng trong mê lộ của dĩ vãng, thì hạng quần chúng dân đen như tôi làm sao có thể tìm được lối ra cho tương lai của bản thân, của Đất Nước? Đặc biệt đối với Tiến sĩ Nguyễn Trần Bạt là một nhà tư vấn đầu tư thành công vượt bực, tác giả nhiều bài viết mang tính nhân văn mà tôi rất ưa chuộng, lại đánh giá ông Hồ là một lãnh tụ kiệt xuất chưa ai có thể sánh được xưa nay thì tôi rất nghi ngờ khả năng phán đoán của ông ấy vô cùng. Theo tôi, Nguyễn Tất Thành đã chết, mang ông ra để tâng bốc hay hài tội chẳng đưa lại lợi ích gì, chỉ làm cho cuộc đối thoại về dân chủ thêm phức tạp. Bao lâu hài cốt của ông Hồ còn nằm ở quảng trường Ba Đình, học sinh còn bị nhồi nhét tư tưởng, đạo đức của ông Hồ thì tất cả các cuộc cải cách của Cộng Đảng là điều bất khả, từ đó sẽ đưa đến hỗn loạn mà không cách gì kiềm chế được. Nước Đức hùng cường và được thế giới kính nể là bởi vì lãnh đạo và nhân dân Đức biết sám hối, công khai xin lỗi Do Thái vì tội tàn sát của nhà độc tài Adolf Hitler. * * * Lâu nay cuộc vận động, đấu tranh Tự Do Dân Chủ cho Đất Nước không được quần chúng quan tâm hưởng ứng, có lẽ họ chai lỳ vì bị ăn bánh vẽ nhiều quá. Hy sinh xương máu đánh đuổi Thực dân Pháp để giành Tự Do thành công thì cuộc sống sau đó còn tồi tệ hơn dưới thời Tây đô hộ. Cách mạng lật đổ Ngô Đình Diệm xong, Miền Nam càng rối loạn, mất an ninh. Giải phóng Dân tộc thắng lợi, hàng triệu người đi tù và hàng triệu người vượt biển bỏ xứ. Họ hoài nghi tự hỏi: “Nếu lật đổ chế độ tàn ác bất nhân hiện hành này xong, liệu con cháu của họ có khá hơn không?” Hơn nữa, tập đoàn cầm quyền này có một kỹ thuật cai trị rất ghê gớm: thi hành chính sách bao tử trị, công an trị để khủng bố nhân dân triền miên, khiến cho kẻ bị trị trở nên hèn nhát, sợ hãi, ích kỷ, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến miếng ăn cho bản thân, thây kệ tương lai dân tộc ra sao thì ra. Do đó tính vô cảm của dân phát sinh: Mặckênô! Người Việt tỵ nạn ở các quốc gia tự do thấy đồng bào mình khốn khổ ở quê nhà, muốn đóng góp vào cuộc kháng chiến chống Cộng thì bị lừa nên mất niềm tin. Mặt khác, có những phần tử hô hào tự do dân chủ nhưng hễ ai có suy nghĩ khác, hành động khác thì vội chụp ngay cho người ta là cộng sản. Tôi có thể nói rằng sau ba mươi lăm năm người Việt ty nạn không thể xây dựng được một lực lượng yểm trợ công cuộc dân chủ hóa ở quê nhà là do bản chất chia rẽ, chỉ có Cái Ta là nhất, chẳng ai chịu ai. Đoàn thể mọc ra như nấm. Nhảy ra làm chính trị để kiếm hư danh hơn là vì lòng yêu nước thương nòi. Lại thêm trình độ hiểu biết chính trị không có, nhưng lại ồn ào nhất, to mồm nhất. Nguyên tắc đấu tranh chính trị là thương thuyết, đàm phán để đi đến thỏa hiệp. Bao giờ cuộc đàm phán, thương thuyết thất bại, không thể thỏa hiệp thì mới đi đến chiến tranh. Đó là nguyên tắc cơ bản nhất mà bất cứ người nào hoạt động chính trị đều phải hiểu. Chủ tịch Tập thể Nguyễn Xuân Vinh là một Giáo sư Đại học có bằng Tiến sĩ, đứng đầu một tổ chức đấu tranh chính trị cứ khăng khăng kiên định lập trường không đàm phán, không thương thuyết, không thỏa hiệp với đối phương mà cũng có người đi theo, ca tụng. Cho nên cái Tập Thể đó trở thành Ban Nghi Lễ lo việc quan hôn tang tế và dần dần tàn lụi! Tôi viết bài tham luận với chủ đề “Hòa Hợp Hòa Giải Để Đoàn Kết Là Một Mệnh Lệnh Trong Công Cuộc Cứu Nước” trình bày rất rõ người Việt hải ngoại hòa hợp hòa giải với nhau, người Việt quốc nội hòa hợp hòa giải với nhau để rồi cùng bắt tay tạo sức mạnh chung nhằm lật đổ bạo quyền. Thế mà có những kẻ quy chụp tác giả có âm mưu tiếp tay cho cộng sản. Tình trạng đó hoặc do ác ý hoặc do trình độ nhận thức kém cỏi đều gây tai hại cho công cuộc đấu tranh dân chủ, tự do. Có thể kết luận rằng số người mượn danh nghĩa Chống Cộng để được to mồm, được ăn trên ngồi trước chẳng bao nhiêu, nhưng vì đa số thầm lặng chỉ mong yên thân, không dám lên tiếng chống lại điều sai trái, nên bọn to mồm lấn lướt. Trung Cộng công khai bành trướng, tuyên bố Hoàng Sa Trường Sa thuộc về chúng, cướp tài sản, giết ngư dân mà Đảng Cầm quyền không dám có phản ứng, lại đánh đập, bỏ tù người yêu nước bày tỏ sự phản đối. Chưa hết, bọn bá quyền Phương Bắc đưa hàng ngàn nhân công vào Tây Nguyên khai thác quặng mỏ mà vị Cha Đẻ Quân Đội Nhân Dân Võ Nguyên Giáp lên tiếng can ngăn cũng vô hiệu; các nhà trí thức yêu nước gửi kiến nghị bị ném vào sọt rác. Trang mạng Bô-xít bị đánh sập nhiều phen. Những biến cố kể trên, tôi nghĩ rằng đó là một điều may mắn cho Đất Nước, vì nhờ nó mà những người từng hy sinh phụng sự chủ nghĩa cộng sản như Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, Đồng Sĩ Nguyên … và nhiều nhà trí thức như Cù Huy Hà Vũ, Đỗ Xuân Thọ bắt đầu châm ngòi cho nhận thức mới: Việt Nam Cộng Hòa có chính nghĩa yêu nước, vì dám hy sinh bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ. Cho nên, trọng tâm của cuộc tranh đấu hôm nay là lấy “Niềm Tự Hào Dân Tộc Và Lòng Yêu Nước” làm động cơ thúc đẩy cuộc Cách Mạng Dân Tộc. Bởi vì NƯỚC có tồn tại thì DÂN mới có Nhân Quyền, Dân Chủ, Tự Do; còn nếu bị nô lệ ngoại bang – nhất là ngoại bang là cộng sản Tầu – thì không có gì cả! Do đó, những người yêu nước bất luận ở phương trời nào hãy vì sự sống còn của Tổ Quốc phải dũng cảm tự thanh tẩy, tự dẹp bỏ những ý đồ đen tối, tham vọng cá nhân tầm thường, tự xóa bỏ những quá khứ ngổn ngang để đoàn kết lại thành một khối duy nhất nhằm kêu gọi, vận động các Tướng Lĩnh đang nắm binh quyền trong tay hãy đứng lên tiêu diệt bọn bán nước buôn dân, bọn cướp của giết người làm giàu trên xương máu đồng bào. Nếu bản thân mỗi người không đủ lòng yêu nước để thực hiện nổi những điều này nhằm đoàn kết thì chắc chắn nước Việt Nam ta sẽ bị Bắc thuộc một lần nữa. Trong nước dưới sự thống trị của bọn cầm quyền tay sai Trung Cộng, nhân dân không thể dựng lên Hội Nghị Diên Hồng. Vậy thì người hải ngoại hãy tìm đến nhau để tổ chức một Hội Nghị Diên Hồng, chứng tỏ sự đoàn kết, rồi như vết dầu loang đổ về trong nước làm bùng lên ngọn lửa đấu tranh. Đó là lúc người Anh Hùng Vô Danh xuất hiện. Với kỹ thuật thông tin tiên tiến hiện nay, dù ở chân trời góc biển, chúng ta vẫn có thể liên lạc nhau để tham khảo, bàn luận hầu tiến tới tổ chức Hội Nghị Diên Hồng. Bằng tấm lòng yêu nước vô biên, chẳng có khó khăn nào mà không thể vượt qua. Viện bất cứ lý lẽ gì để từ chối đoàn kết đều là có tội với Tổ Tiên. Nếu lời đề nghị tha thiết của kẻ viết bài này mà không thấy có một động thái nào của các nhà hoạt động chính trị ở hải ngoại thì rõ ràng là hết thuốc chữa. Người trong nước vô cảm và người hải ngoại cũng vô cảm thì lấy đâu ra Anh Hùng Vô Danh ra tay cứu nước? “Khí Phách Còn, Dân Tộc Còn”. Xưa kia Tổ Tiên ta một mình đã nhiều phen chiến thắng quân xâm lược Phương Bắc. Ngày nay, nếu người cầm quyền khôn ngoan, lương thiện, yêu nước thương dân, biết liên minh chân thành với bạn hữu bốn phương thì việc giữ nước chẳng có gì khó khăn. Nhất là vị thế của nước ta nằm trên đường giao thông quốc tế thì các nước khác sẽ không chấp nhận để cho bá quyền Trung Cộng đơn phương thao túng. Đài Loan nhỏ bé hơn ta mà Trung Cộng chẳng thể nào thôn tính, ấy là nhờ lãnh tụ biết thể hiện một chế độ dân chủ, tự do, trách nhiệm với quần chúng và nhờ sự che chở của Thế Giới Tự Do. Vì vậy, nước ta còn hay mất là do dân tộc ta có khí phách gìn giữ độc lập hay cam tâm làm nô lệ. Lòng dân không muốn độc lập thì Trời hay Phật cũng không giúp ta được. Tháng Tư, năm 2010.
|