Những đóng góp cho Đất nước sau 1975 của một chứng nhân lịch sử: GS Vũ Quốc Thúc |
Tác Giả: Lê Quế Lâm | ||||
Chúa Nhật, 17 Tháng 7 Năm 2011 10:52 | ||||
Sau tháng Tư 1975, người dân Miền Nam bắt đầu gánh chịu thảm họa lớn khi đất nước thống nhất dưới sự cai trị của Đảng CSVN. Gần một triệu người thuộc chế độ cũ bị đưa vào các trại cải tạo. Sự phân biệt “chính ngụy” còn nhắm vào con cái các thành phần kể trên nhằm triệt hạ tận gốc người Quốc gia. Cuộc chiến kéo dài gần 30 năm từ 1946 đến 1975 vừa chấm dứt, một cuộc chiến mới lại xảy ra giữa CSVN và Khmer Đỏ. Hàng trăm ngàn thanh niên bị cưỡng bách nhập ngũ, đưa đi chiến đấu ở Cam-pu-chia. Nền chuyên chính vô sản còn áp dụng đối với cán bộ đảng viên của họ, gần 30 vạn đảng viên được đào tạo ở Trung Cộng bị sa thãi khỏi chính quyền khi CSVN bày tỏ thái độ thù địch với TC. Hàng chục ngàn gia đình tư sản bị đưa đi các vùng kinh tế mới. Các xí nghiệp tư nhân bị quốc hữu hóa, các ngành tiểu công nghiệp và nông nghiệp phải đi vào con đường làm ăn tập thể. Miền Nam từng là vựa lúa lớn của thế giới, nay bắt đầu bị nạn đói đe dọa, phải ăn độn khoai sắn, bo bo. Ông ghi lại sự kiện huyền diệu này trong hồi ký Thời Đại Của Tôi: “Sau đó nhìn kỹ, thì trên gò má bức tượng không thấy có gì cả. Như vậy giọt nước mắt mà tôi nhìn thấy chỉ là một ảo ảnh. Từ lúc đó trở đi, suốt buổi chiều, tôi thấy trong lòng hồi hộp như mình đang chờ đợi một việc gì sắp xảy ra. Tôi vội vàng mở lén chiếc radio nhỏ, vì trong nhà vẫn còn bộ đội đang chiếm đóng. Tôi nghe lén chương trình tiếng Việt của BBC. Tin đầu tiên tôi nghe thấy là ông Raymond Barre, một người cùng thi thạc sĩ với tôi năm 1950 đã được tổng thống Pháp Valéry Giscard d’Estaing cử làm thủ tướng. Lúc đó không khác chi có người vỗ vai tôi và bảo tôi: tại sao không nhờ ông Raymond Barre là một người cùng thi với mình. Ông ta là giáo sư đại học, mình cũng là một giáo sư đại học cùng ngạch với ông ấy mà bây giờ lại lâm vào cảnh khốn cùng như thế này, nhờ ông can thiệp giúp, để cho gia đình sang Pháp”. Nhờ cơ duyên trên, Giáo sư VQT và toàn bộ gia đình đến định cư ở Paris từ ngày 30/6/1978. Nhờ sự giới thiệu của Thủ tướng Raymond Barre, ông được bổ nhiệm làm giáo sư giảng dạy kinh tế và quản trị xí nghiệp Viện Đại học Paris XII. Từ thời điểm này, ông dành cuộc đời còn lại để phục vụ dân tộc mang lại tự do cho đồng bào để đền ơn Đức Mẹ. Đầu thập niên 1980, một nhà báo Pháp có tham vọng viết sử là Henri de Turenne, đã đạo diển cho hãng Pathé, phát hành một loạt phim về lịch sử VN từ thời Pháp thuộc đến chiến tranh VN giữa HK và CSVN. Loạt phim lịch sử VN của ông ta dựa trên tài liệu của nhiều tác giả viết bằng tiếng Pháp hoặc tiếng Anh, nhưng toàn là những tác giả có xu hướng bài bác chính quyền quốc gia. Họ coi chính quyền này là bù nhìn của Pháp. Thí dụ những ông Thủ tướng bắt đầu bằng những người từng làm việc dưới thời chinh phủ Nam Kỳ tự trị, rồi sau này dưới thời chính phủ lâm thời của Quốc trưởng Bảo Đại, chẳng hạn các Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Phan Long, Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm là tay sai của Pháp, hoặc hoàng thân Bửu Lộc cũng là người du học ở Pháp. Nói tóm lại, những người làm việc trong chính quyền quốc gia chẳng ít thì nhiều được coi là thân Pháp, nếu không cũng dựa vào thế lực của Pháp, dựa vào quân đội Pháp để cai trị. Quả thật, các thủ tướng đầu tiên của Quốc gia Việt Nam trong giai đoạn 1948-1955 như kể trên, đều là các thành viên trong chính phủ Nam Kỳ Tự trị của Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh năm 1946. Họ là những trí thức VN hấp thụ văn hóa Pháp nhưng đấu tranh với Pháp giành lại độc lập cho nước nhà bằng con đường hòa bình theo đúng pháp lý quốc tế do Đồng minh qui định sau khi Thế chiến II chấm dứt. Trước đây Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp, nay Pháp trở lại phần đất Nam vĩ tuyến 16 để tái lập chủ quyền và thương thảo với người bản xứ để trao trả độc lập cho họ. Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh thành lập Nam Kỳ tự trị trong bối cảnh trên, trước khi giành độc lập hoàn toàn và thống nhất đất nước. Giáo sư VQT là một chứng nhân lịch sử. Từ vùng kháng chiến Việt Minh trở về Hà Nội, ông được Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân cử làm Công cán ủy viên làm việc ở Paris từ 1948 trong thời gian Chính phủ Trung ương Quốc gia Lâm thời vừa được Cựu hoàng Bảo Đại cho thành lập, để thương lượng với Pháp về nền độc lập và thống nhất nước nhà. Kết quả là ngày 8/6/1948 trên một chiến hạm bỏ neo tại Vịnh Hạ Long, Cao ủy Bollaert, đại diện chính phủ Pháp và Nguyễn Văn Xuân thủ tướng Chính phủ Trung ương Quốc Gia Lâm thời đã ký thỏa ước Vịnh Hạ Long. Pháp nhìn nhận VN độc lập và tự do thực hiện sự thống nhất quốc gia. Đến ngày 8/3/1949, tại Dinh tổng thống Pháp (Điện Elysée) cựu hoàng Bảo Đại và TT Vincent Auriol ký Hiệp ước Elysée. Pháp chính thức nhìn nhận VN là một quốc gia độc lập thống nhất thuộc khối Liên Hiệp Pháp. Lúc bấy giờ, VN ở trong khối LHP, để tìm sự bảo trợ của khối này nhằm chống lại mưu đồ nhuộm đỏ Đông Dương của ông Hồ Chí Minh. Đây là sự đền trả của Pháp sau hơn 80 năm khai thác nguồn tài nguyên của nước ta. Nay họ có bổn phận chiến đấu bên cạnh Quân đội Quốc Gia VN để bảo vệ nền độc lập và Tự do cho dân tộc Việt. Từ 1949 đến cuối năm 1953, số quân viễn chinh Pháp bị thương vong lên đến trên 100 ngàn và đã chi cho cuộc chiến hơn hai lần số tiền mà họ đã nhận của HK qua kế hoạch Marshall để tái thiết nước Pháp sau Thế chiến II. Đến cuối năm 1953, tình hình Đông Dương bước vào một khúc quanh quan trọng: các cường quốc quyết định chia cắt ảnh hưởng ở Đông Dương. Lúc bấy giờ ông VQT đã đô bằng Thạc sĩ, tham gia Chính phủ Bửu Lộc với chức vụ Bộ trưởng Giáo dục. Ông đã cùng Thủ tướng Bửu Lộc, Giáo sư Nguyễ Quốc Định, bộ trưởng Ngoại giao, Nguyễn Văn Đạm Bộ trưởng Tư pháp và Luật sư Nguyễn Đắc Khê Bộ trưởng Bộ Dân chủ hóa đến Paris cùng Thủ tướng Pháp Joseph Laniel ký Hiệp ước về Độc lập (Traité d’Indépendance) ngày 4/6/1954. Nước Pháp công nhận nước VN là một quốc gia hoàn toàn độc lập có đầy đủ chủ quyền và thẩm quyền do quốc tế công pháp công nhận. Trong Nội các Bửu Lộc có Bộ Dân Chủ Hóa, khi đất nước sắp bước vào một giai đoạn lịch sử mới, cho thấy Quốc trưởng Bảo Đại đã chuẩn bị đưa VN vào thời đại Dân chủ thực sự. Hai tuần sau khi Hiệp ước Độc lập được ký kết, QT Bảo Đại đề cử ông Ngô Đình Diệm làm thủ tướng với toàn quyền quân sự và dân sự. TT Diệm yêu cầu Pháp chính thức rút khỏi VN, nước Việt Nam Cộng Hòa ra đời từ 1956. Giáo sư VQT xuất hiện trên đài truyền hình và phát thanh để phản bác những xuyên tạc sự thật của bộ phim lịch sử do ông Henri de Turenne làm đạo diễn. Theo Gs Thúc, việc làm của ông Turenne “không khác gì công việc của một chứng nhân trước tòa án dư luận để xét lại một số lịch sử VN”. Nhưng ông Turenne “không làm đúng vai trò chứng nhân của một sử gia vì ông ấy đã cố ý bỏ quên một phần lớn sự thật là các ưu điểm của chính qưyền Quốc gia VN cũng như của chế độ thuộc địa Pháp ngày xưa”. Sau đó ông Turenne đã phải thú nhận ngay trên đài truyền hình là ông ta đã thuật lại các sự việc với tư cách một ký giả chớ không phải với tư cách một sử gia. Người đời có câu “Nhà báo, nói láo ăn tiền”. Phản bác lập luận của Henri de Turenne, chính là phản bác giới báo chí thiếu sự lương thiện cùng các phần tử phản chiến đã xuyên tạc sự thật nhằm làm mất uy tín của người Quốc gia trong cuộc chiến Quốc Cộng vừa qua. Vào năm 1986, làn sóng thuyền nhân đã bước vào năm thứ 10, các nước Âu, Mỹ, Á ngày càng trở nên lãnh đạm, nếu chưa phải là “hằn học” đối với các nạn dân VN. Họ cho rằng đám người này kéo nhau di cư, không phải vì lý do chinh trị, mà chỉ vì lý do kinh tế. Vì thế Gs VQT cùng thẩm phán Nguyễn Thạch Vân, một cộng sự viên của cố TT Trần Văn Hương nêu lên vấn đề Hà Nội vi phạm HĐ Paris 1973, trong khi các cường quốc thiếu trách nhiệm vì đã long trọng ký tên bảo đảm sự thi hành hiệp định. Chính vì họ “bội ước” cho nên hàng triệu người phải bỏ VN ra đi. Họ không có quyền mạt sát nạn dân VN là những kẻ tị nạn chính trị giả hiệu. Nhân kỷ niệm lần thứ 38 Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, Gs VQT tổ chức cuộc hội thảo ngày 7/12/1986 tại Paris về vấn đề thuyền nhân. Ông mời một số luật sư tên tuổi làm thuyết trình viên như Thẩm phán Nguyễn Thạch Vân, cựu Bộ trưởng Phủ Tổng thống, Luật sư Vương Văn Bắc, cựu Bộ trưởng Ngoại giao, Luật sư Trần Thanh Hiệp, cựu bộ trưởng…Thảm cảnh thuyền nhân theo phân tích của các luật gia, xuất phát từ quyền tự quyết của nhân dân bị tước đoạt. Nhà cầm quyền CS bắt dân VN chấp nhận nếp sống trái ngược với truyền thống văn hóa mình, trái ngược với nguyện vọng dân tộc của mình và tồi tệ hơn nữa, trái hẳn với nhân phẩm của mình. Người ta không có lối thoát nào khác nên phải liều mạng ra đi. Luật sư Vương Văn Bắc kết luận: HĐ Paris 1973 cũng như văn kiện ngày 2/3/1973 của Hội nghị quốc tế về VN đều có chứa đựng một số điều khoản nếu được thi hành đứng đắn đã tránh được thảm họa thuyền nhân. Các thỏa hiệp đó chưa hề mất giá trị. Nếu bây giờ làm sống lại, người ta có hy vọng thiết lập một nền hòa bình lâu dài ở Đông Dương và như vậy sẽ giải quyết một cách dứt khoát thảm trạng thuyền nhân. Nếu thảm họa này kéo dài, hiển nhiên đó là một mối đe dọa thường xuyên đối với nguyên tắc thượng tôn pháp luật. Sau ba tiếng đồng hồ hội thảo, các tham dự viên đã đi đến quyết định thành lập Ủy ban Luật gia Vận động Vãn hồi Hiệp định Paris 1973 do Gs VQT làm chủ tịch. Lúc bấy giờ, thế giới lên án CSVN can dự vào cuộc chiến ở Campuchea và vi phạm nhân quyền trầm trọng. Nghị quyết của Đại hội Đồng LHQ năm 1985, yêu cầu quân ngoại nhập (CSVN) phải rút khỏi Miên với 114 phiếu thuận, chỉ có 21 phiếu chống và 16 nước vắng mặt. Với gần 200 ngàn quân đang bị sa lầy ở Miên, nền hòa bình và thịnh vượng mà người dân VN mong đợi như là phần thưởng sau mấy chục năm chiến tranh vẫn còn là giấc mơ. Trong tình thế đó, việc Vãn hồi HĐ Paris 1973 trở nên cấp bách. Gs VQT cảnh báo các cường quốc đừng nên lầm tưởng có thể giải quyết riêng biệt vấn đề hòa bình ở Campuchea. Muốn tiến tới một nền hòa bình thực sự ở Đông Dương cần phải để những người Quốc gia chia sẻ quyền hành với Đảng CSVN. Giải pháp thích hợp nhất là trở lại HĐ Paris 1973: không phải mãi mãi chia đôi VN, mà là để hoàn thành sự tái thống nhất trong tinh thần hoà hợp, hòa giải bằng thương thuyết giữa hai bên đối nghịch. Ngày 23/5/1987 tại Paris, với sự hỗ trợ tích cực của Ủy ban Pháp Quốc yểm trợ một nước VN tự do (Comité Francais de soutien pour un Vietnam libre), Gs VQT đã tổ chức một cuộc hội thảo công khai về việc trở lại HĐ Paris 1973. Nhân dịp này Ủy ban Luật gia VN đặt lại vấn đề hiệu lực của HĐ Paris 1973 (Comité de juristes Vietnamiens pour la remise en vigueur des Accords de Paris de 1973) đã công bố chính thức Bạch thư (Libre blanc) với tựa đề Guèrre et Paix en Indochine (Chiến tranh và hòa bình ở Đông Dương). Để trở lại HĐ Paris 1973, nhằm giải quyết các vấn đề nan giải của các nước ĐD, Bạch thư kêu gọi Pháp đứng ra triệu tập một hội nghị Paris mở rộng, bao gồm 5 Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo An LHQ, bốn nước nguyên thành viên Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến ĐD năm 1954, hai phe Quốc Cộng của ba nước Việt Miên Lào. Cuộc hội thảo do Gs VQT chủ tọa cùng với Dân biểu Georges Mesmin, Chủ tịch Ủy ban Ngoại giao Hạ Nghị Viên Quốc hội Pháp, đồng thời cũng là Thị trưởng Quận 16 Paris. Và dân biểu Pierre Bas, Chủ tịch Ủy ban Pháp Quốc Yểm trợ một nước VN Tự do. Ông này là thành viên của Đảng Rassemblement pour la Republique (RPR) đang nắm đa số tại Quốc hội. Ngoài chức vụ dân biểu quốc hội, ông Pierre Bas còn là thị trưởng của Quận 6 Paris. Mục đích của buổi hội thảo là giải quyết vấn đề VN kèm theo vấn đề Cam Bốt trên cơ sở lý luận, không thể giải quyết vấn đề hòa bình Cam Bốt một cách riêng rẽ, vì tình hình Cam Bốt với tình hình VN và Lào gắn bó mật thiết với nhau. Trong hồi ký, Gs VQT thừa nhận: “Dù không tin tưởng triển vọng HĐ Paris có thể sống lại, nhưng ít ra nó cũng đem lại cho mọi người một tia sáng nào đó, khi mọi người còn đang ở trong đường hầm. Ít nhất người ta thấy có một giải pháp cụ thể hơn là những bản tuyên ngôn thông thường. Chúng ta là người VN tự do, chúng ta có bổn phận đòi vãn hồi HĐ Paris 1973, vì chúng ta bị tước đoạt một quyền thiêng liêng được minh thị bảo đảm trong hiệp định. Đó là quyền tự quyết của nhân dân MN. Nếu chúng ta không yêu sách, thì ai đòi hỏi cho chúng ta? Giải pháp do anh em luật gia đưa ra dựa trên những nguyên tắc quốc tế công pháp, trên những bản hiệp định vẫn còn giá trị theo công pháp quốc tế. Chúng tôi chỉ còn trông mong vào sự phù hộ, tin tưởng ở sự huyền diệu của Đức Mẹ. Nếu đạt được phần nào kết quả cũng là nhờ ơn thiên điển mà thôi”. Lúc bấy giờ, một số người không muốn TT Thiệu trở lại vai trò tổng thống VNCH trong đó có Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy không tán thành việc coi ông Thiệu là đại diện của phe quốc gia. Trái lại ông Thiệu lại tha thiết với việc làm sống lại HĐ Paris. Còn phần HK, trước buổi hội thảo một ngày, một luật sư HK tên David Steinman xin gặp ông Thúc,nói rằng ông là cộng sự viên của ông Moynihan, Thượng Nghĩ Sĩ Đảng Dân chủ HK Tiểu bang New York, đại diện không chính thức của Kissinger. Luật sư Steinman cho biết HK không muốn ông Thiệu tham dự công khai cuộc hội thảo, vì nó có thể gây nên nhiều ngờ vực, thắc mắc với những bình luận không có lợi cho HK. Ông đề nghị để ông Thiệu tham dự ở hậu trường, đừng ra mặt. Ông Thúc đề cập với David Steinman về “công cuộc đấu tranh của chúng tôi để biến VN thành một nước tự do”. Ông ta nói “Sớm muộn gì quý vị cũng phải dùng biện pháp “civil disobedience” (bất tuân dân sự). Phải có phong trào bất tuân dân sự trên toàn quốc mới hy vọng thay đổi được chế độ cộng sản độc tài”. Sau đó ít lâu, vào khoảng 12/1987 một buổi hội thảo tổ chức ở Paris và lần này có sự tham dự của Kissinger. Ông ta giải thích sở dĩ HK không phản ứng sau khi Hà Nội vi phạm hiệp định vì HK đang bị lúng túng vì vụ Watergate. Dư luận HK cho rằng Mỹ đã rút hết quân rồi, việc BV vi phạm hiệp định Paris xâm chiếm MN, là việc nội bộ của VN, HK không thể nào nhân cơ hội này trở lại VN để bị lôi cuốn một lần nữa vào “vũng bùn chiến tranh” và Quốc hội Mỹ cũng không chấp nhận. Như vậy sự ngăn chận không cho ông Thiệu lên tiếng công khai để đặt lại vấn đề VN cũng là điều dễ hiểu. Mặc dù vậy, ông Thiệu cũng vẫn tiếp tục sang Paris nhiều lần sau đó. Năm 1993, ông cỏn gởi thư đến Tổng Thư ký LHQ yêu cầu thi hành trở lại HĐ Paris 1973. Quả thật, lúc đó HK đã có nổ lực giúp giải quyết vấn đề hòa bình ở Cam Bốt. Kết quả là một hiệp định Paris thứ hai ra đời ngày 23/10/1991 để giải quyết cuộc chiến ở Cam Bốt. Hiệp này rập khuôn HĐ Paris 1973 về VN, cũng được một hội nghị quốc tế thừa nhận, bao gồm 5 nước Ủy viên Thường trực HĐBA, 6 nước ASEAN và các nước khác là Nhật, Úc, Gia Nã Đại, Ấn Độ và Zimbabwean ký trước sự hiện diện của ông Boutros Boutros Ghali. Năm 1993 cuộc tổng tuyển cử dân chủ tự do có sự quan sát của quốc tế được tổ chức, từ đó Cam Bốt trở thành một quốc gia với thể chế dân chủ đa đảng. HĐ Paris 1991 được ký kết giữa bốn bên người Khmer: Hun Sen (Khmer Đỏ thân VN) Khieu Samphan (Khmer Đỏ thân TC), Son Sann (Khmer Tự do) và thái tử Ranaridh Sihanouk (trung lập). Theo đó, việc vãn hồi HĐ Paris 1973 chỉ có thể thành tựu, nếu có sự hiện diện của 4 phe VN, họ chịu ngồi lại với nhau là: CSVN, VNCH, MTGPMN và Thành phần Thứ Ba. Việc này vô cùng khó khăn và cũng không có cường quốc nào có khả năng dàn xếp được, vì thế việc Vãn hồi HĐ Paris 1973 thất bại. Sau khi nhận thấy công cuộc vãn hồi HĐ Paris 1973 không đem lại kết quả, trong khi HK chuẩn bị bình thường hóa bang giao với Hà Nội. Việc này đã xảy ra năm 1995 sau những biến chuyển ở Liên Xô và Đông Âu. TT Bill Clinton tuyên bố “Tôi tin rằng việc bình thường hóa và tăng cường các cuộc tiếp xúc giữa người Mỹ và người VN sẽ thúc đẩy sự nghiệp tự do ở VN như đã từng diễn ra ở Đông Âu và Liên Xô trước đây”. Sự kiện này khiến Gs VQT nhớ đến nhận định của L/sư David Steinman sau cuộc hội thảo về HĐ Paris 1973 ngày 23/5/1987. Ông ta đưa ra ý kiến: muốn thay đổi thể chế chính trị ở quốc nội VN cần phải tạo được một phong trào bất tuân dân sự. Phong trào đó phải được nhiều người trong chính quyền yểm trợ, đặc biệt ở thủ đô, nói cách khác không thể trông cậy vào sự can thiệp từ bên ngoài. Cuộc cách mạng dân chủ hóa ở nhiều nước cựu CS như Tiệp Khắc, Ba Lan Đông Đức, Hung Gia Lợi…đã xảy ra nhờ sự tranh đấu ôn hòa nhưng quyết liệt của nhân dân, trong đó phương pháp bất tuân dân sự là lợi khí chủ yếu. Nhân dân không tuân lịnh nhà cầm quyền, đòi hỏi nhà cầm quyền phải thay đổi thể chế, rốt cuộc, nhà cầm quyền đã phải nhượng bộ trước áp lực của quần chúng. Một cuộc cách mạng nhung (Velvet Revolution) ở Tiệp Khắc có thể xảy ra ở VN được không? Gs Thúc trả lời: Có.Tại sao? Vì có nhiều khả năng quần chúng càng ngày càng ý thức được quyền tự do thiên bẩm của mình, rồi chính những kẻ cầm quyền cũng càng ngày càng có khả năng phản tỉnh, bỏ dần đường lối độc tài của họ để đi tới đa nguyên đa đảng. Theo Gs Thúc, cần phải làm một cái gì để kích thích lòng ham muốn tự do, đánh thức tinh thần tranh đấu của những người trong nước. Bắt đầu với những người cầm quyền, nghĩa là những đảng viên CS. Phải làm cho họ ý thức được xu hướng của thế giới là dân chủ hóa, là tiến tới thể chế chính trị đa đảng đa nguyên trong đó người dân thực sự làm chủ đất nước. Khẩu hiệu chế độ “của dân, do dân, vì dân” không phải khẩu hiệu suông nữa. Giáo sư Nguyễn Bá Long ở Canada đưa ra ý kiến soạn thảo một hiến chương giống như Hiến chương 77 của các nhà dân chủ Tiệp Khắc dưới sự lãnh đạo tinh thần của học giả Vaclav Havel. Gs Thúc tán thành, tham gia soạn thảo hiến chương và nhận làm đồng sáng lập viên của Phong trào Hiến chương 2000. Bản HC 2000 được công bố tại Paris ngày 25/11/2000. Đây là một tuyên ngôn về dân chủ tự do dưới hình thức một bản hiến chương, để làm cơ sở cho một thể chế chính trị mới, một xã hội dân chủ mới. Ngoài ra, nhân số của đảng cầm quyền ngày càng tăng vì có nhiều đặc quyền đặc lợi. Nhưng khi đảng viên đông quá làm sao chia “chiếc bánh chung” cho toàn thể mọi người được. Lúc đó giữa các đảng viên sẽ xuất hiện sự phân biệt: có những phe được lợi nhiều vì chiếm được những địa vị “béo bở”, còn đại đa số đảng viên khác không được như vậy. Hiện tượng “trâu buộc ghét trâu ăn” sẽ xuất hiện ngay trong nội tâm chế độ, trong đầu óc các đảng viên. Phe nọ phe kia tranh giành nhau quyền lực, nên tìm cách mị dân, dùng những khẩu hiệu như tự do, dân chủ, bảo vệ những kẻ “thấp cổ bé miệng” chống lại sự lạm dụng quyền hành, chống lại sự tham nhũng. Đó là mầm móng đưa tới sự thay đổi thể chế chính trị. Tệ nạn tham nhũng khiến cho đảng CS sẽ phải sụp đổ để nhường cho một chế độ dân chủ hơn. Ngày 10/7 vừa qua, tại Bắc Kinh, Đô đốc Mike Mullen, Tổng TMT (Liên quân) Quân đội HK tuyên bố: “Mỹ đã hiện diện lâu dài trong khu vực Á Châu, vì thế HK cũng có một trách nhiệm lâu dài. Sự hiện diện lâu dài của chúng tôi trong khu vực đã rất quan trọng với các đồng minh của chúng tôi trong nhiều thập kỷ qua và sẽ tiếp tục đóng vai trò như vậy”. Lời xác định sự hiện diện của HK ở Biển Đông, khiến người ta nhớ lại nhận định của Gs VQT ngày 24/7/2008 về hai cuộc vận động ngoại giao cấp cao của chính quyền Hà Nội về chủ quyền của VN trên các đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cuối tháng 5/2008, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh cầm đầu phái đoàn sang Bắc Kinh, gồm hầu hết các đảng viên cao cấp đang chủ trì các ban ngành trong bộ máy đảng. Phó trưởng đoàn là Phạm Gia Khiêm, Uỷ viên Bộ Chính trị, vừa là Phó thủ tướng kiêm nhiệm Bộ trưởng Ngoại giao. Còn phía Đảng CSTQ, những lãnh tụ cao cấp như Thủ tướng Ôn Gia Bảo cũng như Bộ trưởng Ngoại giao công khai vắng mặt. Còn Chủ tịch Hồ Cẩm Đào chỉ dự buổi tiếp tân, theo đúng nghi lễ mà thôi. Qua cách xử sự này, cho thấy nhà cầm quyền BK phân biệt rõ ràng hai tư cách Đảng CSTQ và Chính phủ TQ. Do đó các vấn đề đất đai như Hoàng Sa và Trường Sa phải dành lại cho chính phủ hai nước điều đình với nhau. Để tránh sự đổ vỡ trong quan hệ giữa hai đảng Cộng sản VN và TQ, bản Thông cáo chung đề ngày 1/6/2008 nhắc lại khẩu hiệu 16 chữ đã được hai bên long trọng chấp nhận làm cơ sở giao hữu. Một điều đáng để ý là ngay trong phần nhập đề, bản Thông cáo chung đã gián tiếp xác định một nguyên tắc rất quan trọng. Đó là mỗi bên, TC cũng như CSVN, có quyền tùy theo hoàn cảnh đặc thù của nước mình chọn một đường lối riêng để tiến tới đích chung là thực hiện xã hội chủ nghĩa. Nói rõ hơn là VN không bó buộc phải theo đúng kiểu mẫu cũng như chính sách đối nội và đối ngoại của TQ (miễn là không chống TQ) Nếu theo đúng nguyên tắc này, quan hệ giữa VN với TQ, rồi đây, có thể giống như một tiền lệ lịch sử là quan hệ giữa Nam Tư cũ (Yougoslavie) với Liên Xô cũ. Không những Nam Tư theo thể chế tự quản mà lại còn công khai đứng trong hàng ngũ các quốc gia không liên kết, nghĩa là đứng trung lập trong cuộc chiến tranh lạnh giữa HK và LX. Cuộc vận động ngoại giao ở BK đã mang lại cho chính quyền Hà Nội một bài học, đó là các nhà lãnh đạo TQ dù theo ý thức hệ CS vẫn đặt quyền lợi cụ thể của nước họ lên trên hết. Chỉ mấy ngày sau khi phái đoàn Nông Đức Mạnh trở về nước, một phái đoàn chính phủ VN do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cầm đầu đã lên đường đi HK. Cùng đi với Dũng có Phạm Gia Khiêm, người đã tham dự cuộc vận động ngoại giao ở BK. Các quan sát viên vô tư không khỏi thắc mắc: Tổng thống HK G. W. Bush sắp hết nhiệm kỳ. Người kế vị có thể là John McCain hay Barack Obama. Dù sáng kiến cuộc gặp gỡ Mỹ-Việt này do phía nào chăng nữa, ta vẫn phải tìm hiểu tại sao người ta không đợi tới sau cuộc bầu cử tổng thống Mỹ? Phải có một nguyên nhân nào đó khiến cho cuộc gặp gỡ trở nên khẩn trương. Tất nhiên nguyên nhân này liên can đến cả hai nước HK và VN. Về phần VN, việc nổi bật là vụ TQ coi quần đảo Trường Sa của họ rồi. TQ cũng không giấu diếm ý định sát nhập Trường Sa, Hoàng Sa và một quần đảo nữa thành huyện Tam Sa trực thuộc tỉnh Hải Nam. Rồi một số cơ quan truyền thông tiết lộ là TQ đã thiết lập tại đảo Hải Nam một căn cứ hải quân tối tân có thể dùng làm cứ điểm cho nhiều tàu ngầm và cả hàng không mẫu hạm. Như vậy TQ không che dấu tham vọng khống chế toàn khu vực Biển Đông, là một đường tiếp tế có tầm quan trọng chiến lược đối với họ. Về phần HK, Bản thông cáo chung được phổ biến sau cuộc gặp gỡ giữa ông G. W. Bush và Nguyễn Tấn Dũng rất ngắn ngũi và mơ hồ. Tuy nhiên có một điểm khiến chúng tôi chú ý đặc biệt, đó là: HK xác nhận nguyên tắc tôn trọng sự toàn vẹn lãnh thổ của VN. Khẳng định lập trường này, rõ ràng là ông G.W.Bush muốn gởi một tín hiệu cho TQ: Các ông đừng vội coi quần đảo Trường Sa là đất của các ông trong khi chủ quyền quần đảo này còn đang là nội dung tranh chấp giữa các ông với nhiều nước trong vùng. Những sự việc vừa duyệt lại, đưa chúng tôi tới kết luận: tình hình quân sự-chính trị ở Biển Đông đang trở nên nghiêm trọng. Một lần nữa quê hương chúng ta lại lâm vào thế kẹt, giữa hai lực lượng quốc tế đối nghịch. Đã đến lúc không thể úp úp mở mở được nữa mà phải minh bạch hóa thế đứng của mình. Những người Việt tha thiết với tiền đồ của dân tộc, có trách nhiệm làm mọi cách để ngăn ngừa thảm họa chiến tranh tái diễn trên quê hương đã quá đau khổ của chúng ta. (Paris, ngày 24/7/2008 – VQT) Giải pháp mà Gs VQT đề nghị từ ba nước là VN phải dân chủ hóa thể chế chính trị để kiện toàn nền độc lập của xứ sở. VN đi theo con đường trung lập để tránh va chạm với HK và TQ. Sau đó vận động thành lập một khu vực trung lập với các nước láng giềng ở phương Nam TQ. Nhờ đó VN dễ dàng hòa nhập với các nước chung quanh Biển Đông để cùng nhau thương lương với TQ về chủ quyền các quần đảo trong khu vực. Qua nhận định trên của Gs VQT, cho thấy từ giữa năm 2008, thái độ của giới lãnh đạo Đảng CSTQ đối với CSVN bắt đầu lạnh nhạt, khác xa cuộc họp thượng đỉnh Thành Đô năm 1990. Trong 18 năm sau đó “VN đã phải trả một giá rất đắt để được BK yểm trợ Đảng CSVN”. Những gì mà Đảng CSVN đã nhượng bộ và thỏa thuận với TQ, đặc biệt là Biển Đông, từ nay nếu có sự tranh chấp, sẽ được giải quyết giữa hai chính phủ theo công pháp quốc tế. Chính phủ có thể làm được việc này, nhưng Đảng CSVN đành bó tay, vì đã có sự đồng thuận ở cấp cao nhất giữa TT Phạm Văn Đồng và TT Chu Ân Lai năm 1958 cũng như giữa Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Tổng Bí thư Đỗ Mười năm 1990. Điều khó khăn là Đảng CS đang lãnh đạo toàn diện đất nước. Trong Đại hội XI Đảng CSVN vừa qua, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh và Ủy viên Bộ Chính trị Phạm Gia Khiêm đã bị loại, trong khi TT Nguyễn Tấn Dũng vẫn còn tại vị. Nguyễn Phú Trọng, một người thân TQ được bầu làm Tổng Bí thư Đảng, chỉ là một bóng mờ trước TT Nguyễn Tấn Dũng mà quyền thế ngày càng gia tăng. Rồi đây, ông Trương Tấn Sang đảm nhận vai trò Chủ tịch nước, Hiến pháp có thể được tu chính để Chủ tịch nước đảm nhận vai trò lãnh đạo tối cao của nước VN, chớ không phải Tổng Bí thư Đảng CSVN. Chủ tịch nước và thủ tướng đều là dân biểu được nhân dân bầu chọn và được Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất tấn phong, sẽ thay mặt nhân dân thương thảo với chính phủ TQ mới có cơ may thu hồi cương thổ. Chớ Đảng CS không làm gì được. Sự khẳng định của HK duy trì sự hiện diện lâu dài ở châu Á, cho thấy đã đến thời điểm “VN không thể úp úp mở mở được nữa”. Xin nhắc lại, trong diễn văn trước phiên họp cuối cùng của Đại hội Đặc biệt toàn Đảng CS Liên Xô hồi cuối tháng 6/1988, Tổng Bí thư Gorbachev cho rằng hệ thống Xô Viết sẽ sụp đổ nếu họ không kịp thời nhận thức bài học của lịch sử và nhìn nhận những sai lầm trầm trọng mà các lãnh tụ đảng đã theo đuổi trong mấy chục năm qua. Ông nhấn mạnh “sự sống còn của chủ nghia xã hội đang nằm trong tay của đảng. Nó sẽ chết nếu chúng ta không trao quyền cho nhân dân”. Tình thế VN đã chín muồi. Đảng CSVN dính liền với Công hàm năm 1958 của TT Phạm Văn Đồng và 16 chữ vàng từ 1990 đến nay. Nếu Quốc hội không sớm giải quyết, thì đến lượt nhân dân phải hành động qua các đòi hỏi ôn hòa để bảo vệ giang sơn của tiền nhân để lại. Tính đến nay đã có ba kiến nghị của những trí thức nổi tiếng trong nước lên tiếng đòi Bộ Chính trị Đảng CSVN phải có hành động. Đại đa số đảng viên CS không có những địa vị “béo bỡ”, sẽ cân phân giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi đất nước, họ sẽ đồng tình với toàn dân để cứu nước, vừa để bảo vệ sự an toàn cho cá nhân và gia định họ. Lòng yêu nước của nhân dân và sự thức tỉnh của những người CS trong bộ máy chuyên chính sẽ tạo ra cuộc Cách mạng Nhung, chuyển đổi thể chế độc tài chuyên chính sang một nền Dân chủ đích thực tại đất nước ta, trong đó các nhân quyền và quyền tự do căn bản phải được tôn trọng, vừa đoàn kết toàn dân bảo vệ đất nước Hơn ba thập niên trước, bức linh tượng của Đức Mẹ ở Fatima Bình Triệu, tỏa hào quang khi Gs VQT thành tâm nguyện xin được thoát khỏi VN và sẽ cống hiến phần cuối cuộc đời cho đất nước. Từ đó ông đã cố gắng thực hiện ước nguyện của mình qua những việc làm như tôi đã trình bày, được ghi trong hai cuốn Hồi ký Thời Đại Của Tôi. Những dòng cuối cùng trong hồi ký, tác giả nói lên hoài bão của mình: “Những người Việt tha thiết với tiền đồ của dân tộc, có trách nhiệm làm mọi cách để ngăn ngừa thảm họa chiến tranh tái diễn trên quê hương đã quá đau khổ của chúng ta”. Cách đây hơn hai tháng, một phép lạ lại xảy ra với Gs VQT, được ông thuật lại cho Giáo sư Lê Đình Thông, Luật sư Lê Trọng Quát và phu nhân là Giáo sư Trần Thị Minh Châu: “Tôi còn nhớ hôm đó là ngày 26/4/2011, vào khoảng 2 giờ sáng. Tôi đang ngủ say chợt thấy ngọn bạch lạp bập bùng. Tôi tưởng như mình đã chết, cháu con thắp ngọn nến từ biệt. Tôi có cảm giác rờn rợn, bừng tỉnh dậy thấy trên bàn giấy có lửa cháy bùng. Tôi lấy tay chụp tắt lửa rồi ngủ tiếp. Lạ lùng thay vì buổi sáng thức dậy, tôi thấy các que diêm trong hộp cháy đen nửa đầu không có diêm sinh. Trên mặt bàn còn vết cháy đen. Cả căn nhà chỉ có tôi và nhà tôi. Nhà tôi ngủ phòng riêng, không thể tự đi lại giữa đêm khuya. Vậy thì ai đốt cháy hộp diêm?” Giáo sư Thúc đưa cho mọi người xem hộp diêm kỳ lạ. Trời đêm Paris cuối tháng tư còn nhiều sương lạnh. Nếu có hỏa hoạn, ông bà không bị chết cháy thì cũng bị chết ngạt. Sau phép lạ hộp diêm, phu nhân ông bị bệnh hiểm nghèo được bình phục, con gái ông -tiến sĩ Vũ Mộng Lan cũng được cứu chữa hết bệnh. Như vậy là ba phép lạ mắt thấy tai nghe, xảy ra cùng một nơi một lúc. Qua sự việc trên, tôi có ý nghĩ là tấm lòng thành và hoài bão thiết tha của Gs VQT đã được Đức Mẹ chứng giám. Giáo sư chợt tỉnh để dập tắt ngọn lửa trong nhà để cứu gia đình. Nói rộng ra, trong tình thế đất nước hiện nay, giải pháp của Giáo sư là để dập tắt ngọn lửa chiến tranh bạo tàn để cứu dân, cứu nước. Lê Quế Lâm (16/7/2011)
|