Quốc dân Việt Nam đòi hỏi nhà cầm quyền Trung Cộng cũng phải tôn trọng những sự thật lịch sử, pháp lý, chính trị và thực tiễn này, chấm dứt mọi thủ đoạn và hành động xâm lấn bờ cõi của Việt Nam, tôn trọng luật pháp quốc tế về biên giới lãnh thổ và lãnh hải.
|
TUYÊN CÁO CHUNG Của các thành viên tham gia Hội Luận Quốc Nạn Ðảng CSVN Dâng Ðất Nhượng Biển Cho Trung Quốc, tổ chức tại Houston, Texas, Hoa Kỳ ngày 1 & 2 Tháng 6 Năm 2002. Căn cứ trên các sự kiện: 1/- Sự kiện ngày 27-12-2001, lễ cắm mốc biên giới Việt -Trung đã được đại diện hai nhà cầm quyền Việt Cộng và Trung Cộng cử hành tại Móng Cái, một thị trấn địa đầu biên giới phía Bắc Viêt Nam, mở đầu cho việc cắm mốc biên giới mới giữa hai nước sẽ thực hiện trong vòng ba năm, chiếu theo hai hiệp định về biên giới và lãnh hải Việt - Trung đã ký kết ngày 30-12-1999 và ngày 25-12-2000. Mặc dầu hai hiệp định này đã được nhà cầm quyền Việt Cộng và Trung Cộng ký kết bí mật và không công bố, nhưng ý nghĩa các điều khoản căn bản đã được tiết lộ và thể hiện qua việc thực thi, rằng Việt Nam có thể đã bị mất hàng ngàn km2 đất đai vùng biên giới phía Bắc và hàng ngàn hải lý trong Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam, hệ quả của những hiệp định bất bình đẳng và bất công. Sự kiện này đã gây bất bình và phẫn nộ, đưa đến cao trào quốc dân Việt Nam trong cũng như ngoài nước, đãu tranh chống hai hiệp định dâng đất nhượng biển cho Trung Cộng của Việt Cộng. 2/- Sự kiện ngày 17-2-1979, Trung Cộng đã xua quân tiến chiếm, tàn phá, cướp bóc các tỉnh biên giới phía Bắc của Việt Nam, gọi là dạy cho Việt Nam một bài học, vì Việt Cộng đã tiến chiếm Cao Miên, lật đổ chế độ Khmer Ðỏ được Trung Cộng bảo hộ. Sau một tháng chiếm đóng các tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai và Lai Châu của Việt Nam, ngày 16-3-1979 Trung Cộng đã rút quân về, song vẫn còn chiếm giữ nhiều cao điểm đất đai của Việt Nam có tính chiến lược. 3/- Sự kiện ngày 19-1-1974, Trung Cộng đã xử dụng bạo lực quân sự đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, đang được bảo vệ bởi hải quân chế độ Việt nam Cộng Hoà ở Miền Nam Việt Nam. Chính quyền Miền Nam đã cực lực phản đối, tố cáo Trung Cộng xâm lăng và ra tuyến bố xác nhận chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, trong khi nhà cầm quyền chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ở Miền Bắc Việt Nam, tiền thân của chế độ Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đương thời, thì hoàn toàn im lặng. Quần đảo Hoàng Sa nằm ở Bắc Vĩ Ðộ 14.30’ và Ðông Kinh độ 111.30’, là một đơn vị hành chánh thuộc tỉnh Ðà Nẵng của Việt Nam. Trong thời khoảng này chính quyền chế độ Việt Nam Cộng Hoà ở Miền Nam Việt Nam cũng đã lên tiếng xác nhận chủ quyền trên quần đảo Trường Sa nằm ngoài khơi bờ biển Việt Nam và là đơn vị hành chánh thuộc Ðặc Khu Vũng Tàu của Việt Nam Cộng Hoà, lúc ấy đang là đối tượng tranh chấp với Trung Cộng và một số nước khác trong vùng Ðông Nam Á. 4/-Sự kiện ngày 14-9-1958, Phạm Văn Ðồng, Thủ Tướng của chính quyền chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ở Miền Bắc Việt Nam, đã mau mắn gửi văn thư công nhận hành động đơn phương của Chu Ân Lai, Tổng Lý Quốc Vụ Viện Nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, khi tuyên bố chủ quyền và hải phận củaTrung Quốc trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Ðông, vốn thuộc chủ quyền của Việt Nam đã lâu. Trước đó, vào năm 1956, Ung Văn Khiêm, Bộ Trưởng Ngoại Giao chính phủ Hà Nội cũng đã công khai tuyên bố, rằng ‘’ Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa’’. Chính quyền Việt Nam Cộng Hoà ở Miền Nam lúc đó đã lên tiếng mạnh mẽ phủ nhận hành động ngang ngược đơn phương này của Trung Cộng. Nhận định rằng: Qua các sự kiện trên đây, cùng với nhiều sự kiện khác trong lịch sử và thực tiễn cho thấy, Trung Cộng đã và đang thực hiện chủ nghĩa Bá Quyền Ðại Cường, nhằm lấn chiếm các nuớc nhỏ yếu để mở rộng đất đai, khai thác tài nguyên, đồng hoá và nô dịch các lân bang, trong đó Việt Nam là một nạn nhân đầu tiên vì có biên giới cận kề. Ý đồ này của Trung Cộng đã được thể hiện gần nhất đối với Việt Nam, qua hai hiệp định về biên giới và hải phận dẫn thượng, với sự tiếp tay của nhà cầm quyền chế độ Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt nam, một chế độ đã có một quá khứ từng làm công cụ cho cộng sản quốc tế, tay sai Nga, Tàu; Một chế độ đã được thiết lập bằng bạo lực, duy trì bằng bạo lực áp đặt lên quốc dân Việt Nam, với môt chính quyền của đảng, do đảng và vì đảng Cộng Sản Việt Nam. Và do đó, chưa bao giờ và sẽ không bao giờ chế độ và chính quyền Việt Cộng được thừa nhận như là chế độ của dân, do dân và vì dân. Chính quyền ấy không có tư cách đại diện chính đáng và hợp pháp của quốc dân Việt Nam. Vì vậy, chúng tôi, những cá nhân người Việt Nam đang sinh sống khắp nơi tại hải ngoại, thuộc mọi thành phần xã hội, tôn giáo và khuynh hướng chính trị, sau khi tham gia cuộc Hội Luận Quốc Nạn Ðảng Cộng Sản Việt Nam Dâng Ðất, Nhượng Biển Cho Trung Quốc, trong hai ngày 1 & 2 Tháng 6 Năm 2002 tại thành phố Houston, tiểu bang Texas, quốc gia Hoa Kỳ, cùng hợp ý và kết hợp hành động với quốc dân Việt Nam sinh sống khắp nơi tại hải ngoại cũng như trong nước, mạnh mẽ tuyên cáo trước chính phủ và nhân dân các quốc gia trong cộng đồng thế giới. Tuyên cáo: 1/-Rằng đất nước Việt Nam là một giải giang sơn hình cong chữ S, chạy dài từ cực Bắc là Ải Nam Quan, giáp giới với Trung Quốc, đến cực Nam là Mũi Cà Mau giáp vịnh Thái Lan, phía Ðông giáp Thái Bình Dương với 2500km bờ biển và phía Tây giáp hai lân quốc Lào và Cao Miên. Lãnh thổ Việt Nam diện tích tổng cộng là 331.639 Km2. Ðối với lân quốc Phương Bắc làTrung Hoa, sau khi chiếm Việt Nam làm thuộc địa, Pháp đã ký nhiều hiệp ước về biên giới với Trung Hoa. Hiệp ước sau cùng ngày 26-6-1895, bổ túc cho các hiệp định trước đó( Hoà Ước Thiên Tân ngày 9-6-1885, Quy Ước về vấn đế biên giới Việt- Trung ngày 26-6-1887), đã ấn định rõ vị trí địa lý với các cột mốc đánh dấu chủ quyền, dựa trên các cứ điểm thiên nhiên hay nhân tạo cố định. Hiệp định này đã xác định biên giới ổn cố giữaViệt Nam và Trung Hoa dài 1300km, căn cứ trên một bản đồ địa lý do các chuyên viên địa lý người Pháp, lần đầu tiên đã vẽ theo phương pháp khoa học, phân định biên giới, diện tích lãnh thổ của ba quốc gia Ðông Dương thuộc Pháp là Việt, Miên, Lào. Diện tích lãnh thổ và biên giới ổn cố này đã được khẳng định, trên căn bản lịch sử, pháp lý, chính trị và thực tiễn, được hai nước Việt Nam và Trung Hoa tôn trọng và cộng đồng quốc tế thừa nhận hàng thế kỷ qua. Bởi vì bản đồ địa lý lãnh thổ ba nước Việt-Miên-Lào thực hiện năm 1895 đã hội đủ tính trung thực, khách quan, khoa học, phản ánh đúng sự thật lịch sử , pháp lý, chính trị và thực tiễn. Quốc dân Việt Nam đòi hỏi nhà cầm quyền Trung Cộng cũng phải tôn trọng những sự thật lịch sử, pháp lý, chính trị và thực tiễn này, chấm dứt mọi thủ đoạn và hành động xâm lấn bờ cõi của Việt Nam, tôn trọng luật pháp quốc tế về biên giới lãnh thổ và lãnh hải. Nhà cầm quyền Trung Cộng nên nhớ rằng, đã qua rồi thời kỳ các nước lớn được tư do tung hoành xâm thực các nước nhỏ. Hiện tại, trong nền trật tự quốc tế mới, các quốc gia lớn nhỏ, giầu nghèo đều đã và đang có chung nỗ lực cộng sinh trong hoà bình, quan hệ bình đẳng, đôi bên đều có lợi, lấy con người là trung tâm, với các nhân quyền và dân quyền được tôn trọng, bảo vệ và hành xử cho mọi con người, thuộc mọi chủng tộc, trong mọi quốc gia. Ðồng thời, mọi tranh chấp trong quan hệ quốc tế luôn được giải quyết bằng phương thức hoà bình, theo công pháp quốc tế, và mọi vi phạm đến con người đều bị chế tài theo Nhân Luật Quốc Tế. 2/- Rằng hai hiệp định về biên giới và hải phận Việt - Trung được ký kết bí mật ngày 30-12-1999 và ngày 25-12-2000, cũng như bất cứ bản hiệp định song phương hoặc đa phương nào, dù công khai hay bí mật, đã hay sẽ ký kết bởi nhà cầm quyền Việt Cộng với Trung Cộng hay bất cứ quốc gia đệ tam nào, mà có hệ quả vi phạm đến chủ quyền đất nước và sự vẹn toàn lãnh thổ của Việt Nam, tất cả đều vô hiệu vĩnh viễn đối với quốc dân Việt Nam. Bởi vì, người chủ thực sự đất nước Việt Nam, cũng là người thừa kế chính danh, hợp pháp di sản đất đai, biển cả của tiền nhân là quốc dân Việt Nam. Nhà cầm quyền Việt Cộng là một tập đoàn cướp quyền quản lý đất nước, không do sự ủy thác của quốc dân, trong một chế độ chính trị do tập đoàn này là đảng Cộng Sản Việt Nam tự chọn và áp đặt. Do đó, đối với quốc dân Việt Nam, nhà cầm quyền Việt Cộng chỉ là những kẻ tiếm danh, đoạt quyền, bất chính, nên dù có được thế hợp pháp theo công pháp quốc tế, vẫn không có tư cách chính danh và hợp pháp theo luật pháp của Quốc Dân Việt Nam. Và vỉ vậy, mọi hệ quả của các hành vi pháp lý cũng như chính trị của nhà cầm quyền này, sẽ không bao giờ ràng buộc quốc dân Việt Nam trong hiện tại cũng như tương lai. Quốc dân Việt Nam bảo lưu quyền làm chủ đất nước và kiên quyết đòi lại tất cả đất đai và hải phận đã mất vào tay ngoại bang, khi có cơ hội tái lập quyền làm chủ trong một chế độ dân chủ đích thực do quốc dân Việt Nam lựa chọn và thiết lập. 3/- Rằng Quốc dân Việt Nam khẩn thiết kêu gọi tổ chức Liên Hiệp Quốc và cộng đồng các quốc gia trên thế giới, vì lợi ích chung sống hoà bình của mọi quốc gia trong nền trật tự thế giới mới, bằng mọi cách giúp tái lập sự công bằng và công lý, để chấm dứt tình trạng nước lớn lấn áp, xâm thực các nước nhỏ bằng bạo lực quân sự hay thủ đoạn chính trị, ngoại giao, như trường hợp Việt Nam và các quốc gia trong vùng Châu Á Thái Bình Dương, trước hiểm hoạ bành trướng lãnh thổ của nước lớn Trung Cộng. 4/ Rằng Mục đích cao nhất và duy nhất của bản Tuyên Cáo Chung này, là cùng quốc Dân Việt Nam trong cũng như ngoài nước, tạo lập những văn kiện bảo chứng cho tương lai, được công bố trước thế giới trong hiện tại, rằng chúng tôi đã mạnh mẽ lên tiếng phủ nhận mọi hệ quả pháp lý cũng như thực tiễn của các hiệp ước bất bình đẳng liên quan đến biên giới và lãnh hải Việt Nam do nhà cầm quyền Việt Cộng đã ký kết hoặc sẽ ký kết bí mật hay công khai với Trung Cộng, vi phạm chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Quốc dân Việt Nam, với tư cách người chủ chân chính Ðất Nước Việt Nam, bằng mọi cách và với bất cứ giá nào, trong hiện tại cũng như tương lai, sẽ dành quyền thu hồi đất đai và biển cả đã mất do hành vi của một tập đoàn thống trị vô quyền là đảng Cộng Sản Việt Nam gây ra. 5/- Rằng trong hiện tại, bất cứ người Việt Nam nào ở trong nước cũng như hải ngoại, với tư cách là những người thừa kế chính danh cộng đồng tài sản đất nước, đều có quyền và bổn phận lên tiếng tố cáo sự mờ ám và đòi hỏi nhà đương quyền Cộng Sản Việt Nam phải công bố hai hiệp định về biên giới và lãnh hải mà họ đã bí mật ký kết với Trung Cộng ngày 30-12-1999 và 25-12-2000, để biết rõ số lượng đất đai và biển cả thuộc di sản của Tiền Nhân Việt Nam để lại đã bị chia cắt cho ngoại bang bao nhiêu theo các hiệp định này. Việc nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam bắt cầm tù luật gia Lê Chí Quang và bằng mọi hình thức khủng bố, trấn áp những người Việt Nam trong nước, chỉ vì họ đã can đảm lên tiếng tố cáo và đòi hỏi như trên, là vi phạm thô bạo quyền làm chủ đất nước của Quốc Dân Việt Nam và vi phạm nhân quyền. Bằng tuyên cáo này, chúng tôi mạnh mẽ đòi nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam phải công bố trước Quốc Dân Việt Nam toàn văn hai bản hiệp định dẫn thượng, chấm dứt mọi hình thức khủng bố, trấn áp những người Việt Nam trong nước khi họ thực hiện quyền sở hữu chủ chân chính Ðất Nước của mình, và phải trả tự do tức khắc, vô điều kiện cho Luật Gia Lê Chí Quang cũng như những người khác đã bị bắt cầm tù vì các hành vi liên quan đến vụ việc này. Làm tại thành phố Houston, ngày 02 tháng 06 năm 2002 Bản Tuyên Cáo này đã được thông qua trong cuộc Hội Luận Quốc Nạn Ðảng CSVN Dâng Ðất Nhượng Biển Cho Trung Quốc, tổ chức tại Houston, Texas, Hoa Kỳ ngày 1 & 2 Tháng 6 Năm 2002.
|