Việc Hà Nội bắt giam L.S. Ðịnh hoàn toàn không phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế về nhân quyền
Dừng chân ở chặng đường Nam Cali trong chuyến ông đi thăm Hoa Ky, Luật Sư Trần Thanh Hiệp, chủ tịch Trung Tâm Việt Nam về Nhân Quyền, trụ sở đặt tại Paris có đưa ra một số nhân định về việc nhà cầm quyền Hà Nội vừa bắt giam Luật Sư Lê Công Ðịnh. Dưới đây là bài ông tóm lược cho báo Người Việt những ý kiến ông đã trình bày trên hai diễn đàn của của hai đài truyền hình VHNTV và SBTN. Người Việt
|
Luật Sư Lê Công Ðịnh |
Trong vụ bắt giam Luật Sư Lê Công Ðịnh ngày 13-06-2009, nhà cầm quyền Hà Nội một mực khẳng định rằng họ bắt giam Luật Sư Ðịnh vì đương sự đã phạm tội chiếu điều 88 BLHS và cũng đã nhận tội. Hà Nội cho rằng việc bắt giam này là công việc nội bộ của Việt Nam, theo đúng trình tự thủ tục của pháp luật Việt Nam hoàn toàn phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế, trong đó có Công Ước Quốc Tế về Quyền Dân Sự, Chính Trị (ICCPR International covenant on civil and political rights).
Ngày 23-6, trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị cho biết phản ứng của Việt Nam về tuyên bố ngày 22-6-2009 của trưởng các cơ quan đại diện ngoại giao EU tại Việt Nam về việc Cơ Quan An Ninh Ðiều Tra, Bộ Công An bắt Lê Công Ðịnh, người Phát ngôn Bộ Ngoại Giao Lê Dũng đã nói nguyên văn như sau:
“Cần khẳng định rõ rằng Lê Công Ðịnh bị bắt do đã có những hành vi vi phạm pháp luật, cấu kết với một số phần tử ở nước ngoài hoạt động với mục đích lật đổ, chống Nhà nước Việt Nam. Chính Lê Công Ðịnh cũng đã thừa nhận những hành vi phạm tội của mình.
Việc Cơ quan An ninh Ðiều tra của Việt Nam bắt giam Lê Công Ðịnh là công việc nội bộ của Việt Nam, theo đúng trình tự thủ tục của pháp luật Việt Nam, hoàn toàn phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Quốc tế về quyền dân sự, chính trị (ICCPR). Ở Việt Nam, quyền tự do bày tỏ chính kiến của công dân được pháp luật bảo đảm và được thực hiện trên thực tế.
Việc xử lý những người vi phạm pháp luật là cần thiết và là việc làm bình thường mà các quốc gia trên thế giới, trong đó có các nước Liên minh Châu Âu (EU), đều tiến hành để bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự xã hội và an toàn cho người dân.
Ðiều rất đáng tiếc là mặc dù có đầy đủ thông tin và đã trao đổi về vấn đề này trong đối thoại vừa qua giữa Bộ Ngoại Giao Việt Nam và nhóm bộ ba EU (EU-Troika), nhưng tuyên bố của trưởng các cơ quan đại diện ngoại giao EU tại Hà Nội là không khách quan, can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam”.
Có thật đúng như vậy không?
Nhiều câu hỏi cần đặt ra và được trả lời:
1. L.S. Ðịnh có phạm tội không?
2. L.S. Ðịnh có nhận tội không?
3. Việc bắt giam L.S. Ðịnh này có hoàn toàn phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Quốc tế vế quyền dân sự, chính trị (ICCPR) như Hà Nội đã tuyên bố không?
4. Ở Việt Nam quyền tự do bày tỏ chính kiến của công dân có được pháp luật bảo đảm và được thực hiện trên thực tế không?
5. Khi dự luân quốc tế quan tâm vì nhà cầm quyền Hà Nội đã vi phạm nhân quyền thì đó có phải là một sự can thiệp vào nội bộ của Việt Nam không?
L.S. Lê Công Ðịnh không có tội và không nhận tội
Không ai chối cãi rằng L.S. Ðịnh đã có rất nhiều hành vi cụ thể chỉ trích và không tán thành việc làm của Nhà nước CHXHCN VN và theo nguồn tin của công an và báo chí trong nước thì ông đã nói và viết lời nhận tội. Nhà cầm quyền Hà Nội chính thức loan báo rằng Luật Sư Lê Công Ðịnh đã phạm tội và ông đã nhận tội. Có đúng vậy không?
Theo tôi thì L.S. Ðịnh không phạm tội ông bị cáo buộc chiếu điều 88 BLHS. Hà Nội đã áp dụng luật đảng trị do Quốc Hội công cụ đảng trị - chứ không phải do dân - làm ra để buộc tội L.S. Ðịnh. Tưởng cần nhấn mạnh rằng Hà Nội kể từ năm 1982, có nghĩa vụ pháp lý phải thực hiện nhân quyền để thiết lập dân chủ ở Việt Nam. Hà Nội đã không tôn trọng những điều cam kết của mình từ gần ba thập niên rồi. Nay để tiếp tục đi theo con đường độc tài giả dạng dân chủ, Hà Nội mượn luật pháp của riêng mình, dùng bạo lực công cụ là công an ngang nhiên đàn áp cuộc vận động dân chủ bất bạo động. Theo qui phạm của luật quốc tế về nhân quyền mà Hà Nội có nghĩa vụ phải tôn trọng và thực thi ở Việt Nam thì Hà Nội không thể dùng điều 88 của BLHS của họ để làm tội L.S. Ðịnh được. Trước hết, điều này đi ngược lại luật quốc tế về nhân quyền mà Hà Nội phải áp dụng ở Việt Nam. Sau nữa, điều này còn xóa bỏ quyền cho người dân phê bình, giám sát chế độ, dự liệu nơi điều 8 của Hiến pháp 1992 sửa đổi và bổ sung năm 2001 như sau: “Các cơ quan Nhà nước, cán bộ, viên chức Nhà nước phải tôn trọng nhân dân (...),lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân”. Như vậy, L.S. Ðịnh không có tội khi ông hành xử những nhân quyền và dân quyền phổ biến đã được luật quốc tế cũng như luật quốc nội công nhận để “giám sát nhân dân”. L.S. Ðịnh không thể coi như đã có tội. Trái lại, phải suy đoán là ông vô tội.
Mặt khác, L.S. Ðịnh cũng không nhận tội như bộ máy tuyên truyền của Hà Nội đã bố trí để tạo ra một ấn tượng như thế. Trong những lời tuyên bố nói hay viết của mình (theo các nguồn tin của chính CA và báo chí công cụ của chính quyên CS) L.S. Ðịnh chưa bao giờ dùng chữ “nhận tội”, ông chỉ nhìn nhận có làm một số sự kiện mà nếu áp dụng luật của đảng cầm quyền thì là đã vi phạm điều 88 BLHS. Như vậy là ông nhìn nhận sự kiện chứ không nhìn nhận “tội” để kết luận bừa bãi rằng ông đã “nhận tội”. Những sự kiện này có phải là những yếu tố cấu thành tội phạm hay không, điều này cần phải được tòa án xem xét chẳng những trên cơ sở luật thực định ở Việt Nam mà còn cả trên cơ sở những qui phạm pháp lý của luật quốc tế vế nhân quyền. Vì Hà Nội năm 1982 đã tham gia và cam kết tôn trọng và thi hành luật quốc tế về nhân quyền. Hiện giờ tòa án chưa xét xử. Chỉ mới có những lời đề nghị cáo buộc của cơ quan điều tra sơ khởi là công an thì chỉ có thể nói được rằng CA đã nại ra những lý do lấy tư luật pháp do Ðảng làm ra để đàn áp chứ không có gì cho phép khẳng định rằng L.S. Ðịnh đã phạm tội.
Hơn nữa, L.S. Ðịnh cũng không nhận tội mà giả dụ ngay như ông có nhận tội ở giai đoạn điều tra sơ khởi và thẩm vấn chăng nữa, ông vẫn có quyền phản cung trong phiên xử của tòa án. Vậy phải coi là ông vô tội chừng nào chưa có phán quyết của tòa án nói rằng ông có tội.
Việc Hà Nội bắt giam L.S. Ðịnh hoàn toàn không phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế về nhân quyền
Việc bắt giam này hoàn toàn trái với các qui định của luật quốc tế về nhân quyền mà Hà Nội từ năm 1982 đã tự nguyện cam kết chấp nhận và tôn trọng. Khi cam kết như thế, Hà Nội có một số nghĩa vụ quốc tế phải thi hành. Một trong những nghĩa vụ đó là phải sửa đổi cơ chế cai trị của mình sao cho thích hợp để luật hóa những qui phạm quốc tế vế nhân quyền, cải thiện luật thực định của họ nếu luật này không phù hợp với các qui định của luật quốc tế (điều 2 của CUQTQDSCT). Hà Nội đã không thi hành nghĩa vụ này một cách nghiêm chỉnh, một mặt chỉ liệt kê ra một loạt nhân quyền hình thức dưới những tên gọi giống như tên gọi của luật quốc tế, mặt khác, lại đặt ra những luật áp dụng nhằm hợp pháp hóa việc vi phạm trắng trợn những qui phạm quốc tế về nhân quyền. Như trong vụ bắt giam L.S. Ðịnh, Hà Nội đã áp dụng điều 88 BLHS là một tàn dư của bộ luật hình sự năm 1985 của thời gọi là “chuyên chính vô sản” toàn trị theo mô hình Stalin, Mao Trạch Ðông phi nhân quyền, phi nhân phẩm. Vậy làm sao có thể nói là phù hợp với luật quốc tế, mà phải nói là đã vi phạm một cách thường trực, có qui mô và hệ thống mới đúng. Trong thực tế, Hà Nội đã vi phạm các điều tạm kể ra và chưa đầy đủ sau đây 1, 2, 6, 7, 8, 14, 18, 19, 21, 27... v.v… của CUQTQDSCT (...)
Lên án việc bắt giam và đòi hỏi trả tự do cho Luật Sư Lê Công Ðịnh không phải là can thiệp vào nội bộ của Việt Nam
Theo Hiến chương của LHQ thì các quốc gia thành viên đều bình đẳng, không quốc gia nào được quyền can thiệp vào nội bộ của quốc gia khác. Trên nguyên tắc, quốc gia nào cũng có quyền áp dụng luật pháp của mình để trừng trị những hành vi đe dọa an ninh quốc gia, trật tự công cộng. Dưới mắt của nhà cầm quyền Hà Nội, L.S. Ðịnh đã có những hành vi đe dọa sự tồn vong của mình nên họ đã bắt giam và khởi tố.
Như vậy, đương nhiên là bất cứ một nước nào cũng có chủ quyền quốc gia định ra pháp luật trong khuôn khổ của chủ quyền này mà các nước khác phải tôn trọng. Nhưng tình trạng các quốc gia sống biệt lập, một mình một cõi, sau đệ nhị thế chiến đã dần dần chuyển sang tình trạng toàn cầu hóa liền lập, trên cơ sở tự nguyện đồng thuận. Vậy không thể cứ nấp sau bình phong chủ quyền quốc gia tuyệt đối rồi làm mưa làm gió trong đất nước mình, không cần lý gì đến các nước khác. Những người cầm quyền ở Hà Nội nếu muốn, và có khả năng duy trì chế độ độc tài toàn trị phi nhân quyền, phản dân chủ thời Stalin, Mao Trạch Ðông họ đã thiết lập từ năm 1980, thì họ chỉ việc chấm dứt việc họ đã tham gia các công ước quốc tế về nhân quyền và tuyên bố không hội nhập vào cộng đồng nhân loại văn minh nữa. Không ai ngăn cản Hà Nội làm những điều này. Nhưng Hà Nội vẫn cứ giữ nguyên lời cam kết năm 1982, tuy vậy chỉ để hưởng lợi nghĩa là củng cố địa vị của họ trên trường quốc tế đồng thời lại tước đoạt hết mọi dân quyền, nhân quyền của toàn dân. Đó là một sự thật hiển nhiên đã được nhiều lần vạch trần dưới nhiều hình thức khác nhau trước dư luận quốc nội và quốc tế.
Người phát ngôn của nhà cầm quyền Hà Nội trong vụ bắt giam L.S. Ðịnh đã than phiền rằng Hoa Kỳ cũng như Liên Hiệp Châu Âu khi lên tiếng đòi trả tự do cho L.S. Ðịnh đã can thiệp vào nội bộ Việt Nam. Ý hẳn người phát ngôn này muốn nói nếu một quốc gia độc lập mà khi áp dụng luật pháp của mình lại phải biện minh trước những hạch hỏi của bất cứ một quốc gia đệ tam nào thì còn gì là chủ quyền quốc gia, là độc lập nữa?
Nếu tổng quát hóa như vậy thì có thể nói rằng chủ quyền quốc gia bị vi phạm. Nhưng nếu giới hạn vào địa hạt nhân quyền và nhất là thi hành những công ước quốc tế về nhân quyền mà chính Hà Nội đã tham gia cũng như cam kết tôn trọng thì các quốc gia thành viên khác có quyền chất vấn và yêu cầu Hà Nội phải thi hành nghiêm chỉnh sự cam kết của mình. Vì theo án lệ của tòa án quốc tế, khi tham gia những công ước quốc tế về nhân quyền, chính quốc gia đương sự đã tự hạn chế chủ quyền của mình.
Thật ra thì Hà Nội cũng chỉ phản đối cho có lệ và có cớ để chối tội thôi. Vì chỉ mới tháng trước, Hà Nội đã phải công khai trả lời trên diễn đàn của Hội Ðồng Nhân Quyền của LHQ ở Genève về chính sách nhân quyền của Hà Nội và những hành vi của Hà Nội có tính chất vi phạm nhân quyền. Hà Nội đã chẳng những không thể phản đối cuộc chất vấn công khai ấy mà còn phải chính thức trả lời các câu hỏi đã được các quốc gia đệ tam đặt cho Hà Nội.
Ðể đẩy lui độc tài đảng trị, phải kết hợp tranh đấu cho nhân quyền với vận động dân chủ
Từ nhiều năm nay, mọi người luôn luôn được nghe những lời tố cáo và lên án hành động cố ý vi phạm nhân quyền của nhà cầm quyền Hà Nội. Họ bị Hoa Kỳ ghi vào sổ đen vi phạm nhân quyền CPC rồi sau một thời gian đã được xóa tên trên sổ đen này. Bây giờ hiện đang có nhiều tiếng nói yêu cầu đưa Hà Nội trở lại sổ đen ấy. Nhưng trong thực tế thì luồng dư luận này cũng chỉ là những lời nói tiêu cực không cải thiện gì được cái mà người ta gọi là tình trạng phi nhân quyền tồi tệ ở Việt Nam. Không lẽ trong tương lai cứ tiếp tục trò chơi nhàm chán này và như thế thì để đi về đâu, có cải thiện được hiện tình nhân quyền rất xấu ở Việt Nam không?
Nước Việt Nam Cộng Sản dưới quyền cai trị của Hà Nội hiện nay là một trong 4 nước tàn dư còn sống sót của hệ thống cường quyền toàn trị xã hội chủ nghĩa đã hoàn toàn sụp đổ ở Liên Xô và Ðông Âu cũ. Ðể còn bám trụ vào được địa vị cực quyền tự phong của họ, nhà cầm quyền Hà Nội đối ngoại đã mềm dẻo chịu nhượng bộ ngoài mặt trên trường ngoại giao. Nhưng đối nội thì họ không ngừng leo thang đàn áp dân quyền nhân quyền bằng một loạt thủ thuật gian dối, vừa đánh cướp vừa la làng, ngụy biện xuyên tạc ý nghĩa của phong trào vận động dân chủ hóa bất bạo động ở Việt Nam. Thậm chí còn đồng hóa bừa bãi phong trào ấy với “khủng bố” quốc tế, như đã thấy trong vụ bắt giam L.S. Lê Công Ðịnh vừa qua. Vậy thiết tưởng về phía dân chủ tự do, cũng phải tìm ra những hình thức tranh đấu mới để leo thang trong việc bảo vệ và thăng tiến nhân quyền. Nhưng tất nhiên vẫn tranh đấu trên cơ sở luật quốc tế về nhân quyền mà Hà Nội đã tham gia. Tôi cho rằng khi bộ mặt thật, giả dân chủ, giả yêu nước của Hà Nội thông qua thời sự nóng hổi đã lộ rõ, thì nay chính là lúc có thể tạm gác sang bên các nỗ lực tố cáo và lên án, bằng lời nói suông, để kết hợp cuộc tranh đấu dân chủ với việc bảo vệ và thăng tiến nhân quyền. Nói như vậy không có nghĩa là sẽ chính trị hóa một cách vụng về cuộc tranh đấu về nhân quyền không cần có cơ sở pháp lý vững chắc là luật quốc tế. Mà phải đặt lại cho đúng vấn đề “quyền dân tộc tự quyết” mà cả hai Công ước quốc tế về nhân quyền nơi điều 1 dưới đây đã đưa lên hàng một qui phạm quốc tế cơ bản về nhân quyền phổ biến và thường trực.
Ðiều 1:
1. Các dân tộc đều có quyền tự quyết. Chiếu theo quyền này, họ được tự do quyết định về chế độ chính trị và tự do theo đuổi đường hướng phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa.
2. Ðể đạt được mục tiêu này, các dân tộc có quyền tự do sử dụng các nguồn lợi thiên nhiên của mình, miễn là không vi phạm những nghĩa vụ phát sinh từ sự hợp tác quốc tế về kinh tế, đặt căn bản trên quyền lợi hỗ tương và luật pháp quốc tế. Trong mọi trường hợp các phương tiện sinh sống của nghiệp đoàn không thể bị tước đoạt.
3. Các quốc gia hội viên ký kết Công Ước này, kể cả những quốc gia có trách nhiệm bảo hộ hay giám hộ các lãnh thổ khác, phải tôn trọng và xúc tiến việc thực thi quyền dân tộc tự quyết chiếu theo các điều khoản của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc.
Rõ ràng là theo hai Công ước quốc tế về nhân quyền, Ðảng Cộng sản Việt Nam phải để cho nhân dân tự quyết trong việc lực chọn chế độ chính trị chứ không thể kìm kẹp để ép buộc nhân dân Việt Nam phải “theo chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh bị áp đặt sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản”.
Cho đến nay những người cộng sản Việt Nam, để cướp quyền và chiếm quyền làm của riêng, đã không ngừng lý luận rằng quyền tự quyết ấy chỉ là quyền của một dân tộc được sống “độc lập”. Rồi họ tự phong cho mình tư cách đại diện đương nhiên và vô thời hạn của dân tộc để tùy tiện hành xử quyền độc lập, thậm chí còn đem bán rẻ nó cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc. Thiên niên kỷ thứ ba, thời đại của dân chủ đã xác định, qua nhiều quyết nghị của Ðại Hội Ðồng LHQ, qua án lệ của tòa án quốc tế, nội dung của quyền dân tộc tự quyết. Ðó là quyền của mọi dân tộc, hiểu theo nghĩa mọi nhân dân, chẳng những đối ngoại được sống độc lập mà đối nội còn được sống dân chủ.
Về phần Việt Nam quyền dân tộc tự quyết đã được minh thị công nhận nên quyền này đã có những cơ sở pháp lý vững chắc. Ðó là 2 điều khoản của Hiệp định Paris 1973 chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Ðiều 1: Hoa Kỳ và tất cả các quốc gia khác tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam như đã được công nhận trong Hiệp Ðịnh Geneva 1954 về Việt Nam.
Ðiều 9: Chính phủ Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ và Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cam kết tôn trọng những quy định sau về việc thực thi quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam: Quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam là thiêng liêng, không thể chuyển nhượng, và phải được tất cả các nước tôn trọng. Nhân dân miền Nam Việt Nam sẽ tự quyết định tương lai chính trị của miền Nam Việt Nam bằng tổng tuyển cử tự do, dân chủ dưới sự giám sát của quốc tế.
Các nước quốc gia khác sẽ không áp đặt bất kỳ một xu hướng chính trị hay một cá nhân nào lên miền Nam Việt Nam.
Tóm lại, hiện nay chính là thời cơ thuận lợi để cho những người muốn dân chủ hóa Việt Nam tranh đấu đòi lại cho thật đầy đủ và đích thực để trả lại cho nhân dân Việt Nam quyền dân tộc tự quyết trên cơ sở pháp lý là 2 Công ước quốc tế 1966 về nhân quyền và 2 điều 1 và 9 của Hiệp định Paris 1973.
Ðể, đối ngoại, tranh đấu đánh bại âm mưu và hành động xâm lược của Trung Quốc. Và đối nội, đánh bại quyền lực, quyền uy áp đặt của độc tài để thiết lập dân chủ thật sự và chân chính.
Ðó là một cuộc tranh đấu hợp pháp, theo xu thế tiến bộ, văn minh của nhân loại thực hiện nhân quyền cả cho nhân dân Việt Nam lẫn toàn thể nhân loại. Ðể đẩy mạnh hơn nữa cuộc tranh đấu bảo vệ và tiến thăng nhân quyền cho nhân dân Việt Nam và để sớm chấm dứt chính sách đàn áp dân chủ bạo ngược và phi pháp hiện đang diễn ra ở trong nước, cần phải kết hợp tranh đấu nhân quyền với vận động thiết lập dân chủ chân chính ở Việt Nam. Và hướng tranh đấu mới của cuộc tranh đấu tổng hợp này sẽ là yêu sách đòi Nhà cầm quyền cộng sản ở Hà Nội phải thi hành nghiêm chỉnh và đầy đủ nghĩa vụ quốc tế là thiết lập và tôn trọng nhân quyền và tự do dân chủ ở Việt Nam./.
|