Hương Sơn phong cảnh ca |
Tác Giả: Chu Mạnh Trinh |
Thứ Tư, 24 Tháng 12 Năm 2008 03:28 |
1- Bầu trời cảnh bụt 2- Thỏ thẻ Rừng Mai chim cúng trái 3- Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng 5- Lần tràng hạt niệm nam mô Phật Xuất xứ, bố cục, chủ đề 1. Chu Mạnh Trinh (1862 - 1905) hiệu là Trúc Vân, quê ở tỉnh Hưng Yên. Đậu tiến sĩ, nổi tiếng tài hoa. Hội họa, kiến trúc, âm nhạc đều tài giỏi. Là nhà thơ, nổi tiếng với những bài vịnh Kiều - Từng vẽ kiểu trùng tu chùa Thiên Trù ở Hương Tích. Bài thơ “Hương Sơn phong cảnh ca” là bài thơ hay nhất viết về Hương Sơn, nơi có động Hương Tích - Nam thiên đệ nhất động. 2. Bố cục: bài hát nói dôi 2 khổ - Khổ đầu (1): giới thiệu khái quát cảnh Hương Sơn. - Khổ giữa (2): cảnh Rừng Mai, Khe Yến… huyền diệu. - Khổ dôi (3, 4): những suối, chùa, hang, động… nơi Hương Sơn. - Khổ xếp (5): nỗi lòng của khách hành hương. 3. Chủ đề: Ca ngợi cảnh sắc Hương Sơn - Nam thiên đệ nhất động - cảnh đẹp đượm mùi Thiền. Phân tích 1. Cảnh Hương Sơn tả khái quát từ xa. Thiên nhiên nhuốm màu sắc Phật giáo: Cảnh trí hùng vĩ: non, nước, mây trời là vẻ đẹp riêng “bầu trời cảnh bụt”. Du khách vui thú ngạc nhiên thốt lên tự hỏi: “Đệ nhất động hỏi là đây có phải?”. Đầy xúc động, tự hào. 2. Rừng Mai và Khe Yến là 2 cảnh đẹp tiêu biểu của Hương Sơn. Chim hót “thỏ thẻ”, gọi bầy, mổ trái mơ vàng ăn: “Chim cúng trái”. Cá lửng lơ bơi lượn nơi Khe Yến: cá nghe kinh. Hình ảnh ẩn dụ, với đường nét, âm thanh gợi cảm mùi Thiền. Cặp câu đối nhau rất tài hoa: “Thỏ thẻ Rừng Mai, chim cúng trái, Chuông chùa xa “thoảng bên tai một tiếng chày kình” như rũ sạch bụi trần, làm tiêu tan cơn ác mộng của du khách - khách tang hải. Vần thơ: tiếng “kình” với “giật mình”, âm điệu du dương, huyền diệu. 3. Hai khổ dôi + Bốn cảnh đẹp điển hình. Chữ “này” - từ để trỏ gần, nhịp 4 cân xứng hài hòa. Du khách ngắm nhìn không chán “cảnh Bụt”: “Này suối Giải Oan / này chùa Cửa Võng + Lấy gấm dệt để so sánh với nhũ đá trong hang động, “long lanh”, tưởng như có bóng nguyệt lồng vào. Có hang “thăm thẳm”…, là lối “gập gềnh” như uốn lượn “thang mây”. Vẻ đẹp mộng ảo, thần tiên. Du khách ngỡ ngàng tự hỏi: “Chừng giang sơn còn đợi ai đây, Niềm “ao ước” đến Hương Sơn cũng là tình yêu giang sơn, là sự hòa nhập vào thế giới thần tiên huyền diệu. Bốn chứ “còn đợi ai đây” biểu lộ niềm tự hào của nhà thơ - là người đã vẽ kiểu và tổ chức trùng tu chùa Thiên Trù, góp phần cùng “tạo hóa” làm đẹp thêm cảnh Hương Sơn. Tám câu trong 2 khổ dôi rất đẹp và thú vị: sử dụng điệp nhữ (này), ẩn dụ, so sánh (long lanh như gấm dệt; thang mây), từ láy tượng thanh, tượng hình (long lanh, thăm thẳm, gập ghềnh). Vần thơ trầm bổng, du dương. Thể hiện lòng yêu mến, tự hào đối với “Nam thiên đệ nhất động”. 4. Khổ xếp (ba câu cuối): Cảm xúc của du khách: Xúc động thành kích tụng niệm. Ngợi ca và biết ơn Phật tổ: “Cửa từ bi công đức biết là bao!”. Đi xa dần, nhìn lại, lưu luyến đầy say mê: “Càng trông phong cảnh càng yêu”. Cảm hứng thiên nhiên chan hòa với lòng tín ngưỡng Phật giáo. Chu Mạnh Trinh đã nói lên thật hay và hồn nhiên tình cảm ấy của du khách khi đi lễ hội Chùa Hương. Kết luận Ngòi bút tài hoa. Miêu tả cảnh sắc Hương Sơn rất đẹp, vẻ đẹp thiên nhiên với suối, am, chùa, động… đượm mùi Thiền mà thoát tục. Các nét vẽ rất điển hình mang cái hồn của “bầu trời cảnh bụt”. Hình ảnh đẹp - vẻ đẹp thần tiên. Người đọc như cảm thấy Hương Sơn hiển hiện. Chất thơ, chất nhạc du dương tạo nên nét tài hoa và giá trị thẩm mĩ bài hát nói này. Nhà thơ như mời gọi chúng ta đi trẩy hội chùa Hương, để thỏa lòng “ao ước bấy lâu nay”. |