Xuân về, nhấp ly rượu đào, mấy ai nghĩ đến sự chuyển vận của Đất Trời, giao hòa của thời tiết để rồi bâng khuâng nhớ đến chất men nồng huyền diệu của người xưa đã khai sinh ra nó.
Nhất là phong tục Vietnam, Rượu đi đầu trong chữ Lễ, trong 3 ngày Tết.
Lịch sử của Rượu có lẽ cũng lâu đời và huyền hoặc không kém so với sự xuất hiện của loài người.
Trong Hán thư có câu: “Rượu là lộc hậu của trời ban. Bậc đế vương dùng rượu để di dưỡng thiên hạ, dùng vào việc cúng tế cầu phúc. Rượu còn để giúp người khí huyết suy vi điều dưỡng kẻ có tật bệnh. Tất cả các cơ thể giao thông được là nhờ ở rượu”. Cổ nhân cũng nói vua Nghiêu vua Thuấn uống ngàn chung, đức Khổng Tử uống trăm hộc. Thầy Tử Lộ uống liên miên.
Ngoài ra, trong một số Tôn giáo coi Rượu như một tế phẩm cần phải có khi dâng lên các đấng thần linh lúc cầu nguyện. Người Việt chúng ta, lúc cúng giỗ ông bà cũng lấy Rượu là một vật phẩm dâng cúng. Ngày Tết mời nhau Ly rượu lại càng không thể thiếu...
Ngay Thiên chúa giáo, trong Buổi Tiệc Cuối Cùng (The Last Supper), Chúa Jesus như nhắn nhủ 13 Tông đồ bằng ẩn dụ khi ám chỉ "Rượu này là máu ta, Bánh này là thịt xương ta" để ngày nay theo như Phúc Âm mỗi lần con cháu Chúa tiếp nhận Rượu thánh, Bánh thánh sẽ ngầm hiểu rằng Chúa đang hiện diện trong mình.
Văn học sử Trung Hoa và Việt Nam, cũng vì thú của “hơi men” nên đã lưu lại cho hậu thế nhiều chuyện truyền kỳ thích thú.
Văn học Viet Nam ta, bị ảnh hưởng của Nho gia cả ngàn năm Bắc thuộc, nên nói đến Rượu trong Văn học không thể không nghĩ đến Lý Bạch (701-762), với bài thơ lưu truyền nổi tiếng “Tương Tiến Tửu”, mà theo Dương Quảng Hàm, ông là một thi sĩ có thiên tài khác thường, rất ưa rượu, uống rượu vào là thơ ra, nên đương thời cho ông là một Thi sĩ ca tụng thần rượu.
Bạch Cư Dị ( 772-846, cùng thời và nổi tiếng như Lý Bạch và Đỗ Phủ), Vua tuy trọng, chứ cũng không ưa, thành thử hoạn đồ của ông cũng long đong, có lần bị biếm làm Giang châu Tư mã, về già tuy làm chức Hình bộ thượng thư, nhưng chẳng được giao cho trách nhiệm gì cả. Vì không toại ý, nên về già ông sinh chán đời, nghiên cứu đạo Phật, giao du với một vị tăng ở Hương Sơn, (Hương Sơn cư sĩ), suốt ngày ngâm thơ, uống rượu, người đời gọi là Túy ngâm tiên sinh. Có lần Ông ngâm bài thơ “Vịnh hoài”, ngâm xong tủm tỉm cười, rồi nhắc vò rót rượu, uống vài chén cho say tít cù lỳ. Say rồi lại tỉnh, tỉnh rồi lại ngâm, ngâm rồi lại uống, uống rồi lại say; say với ngâm cứ lần lượt mà theo nhau. Bởi thế Ông xem cuộc đời như giấc mộng, coi phú quý như đám mây bay, chớp mắt trăm năm... Bấy giờ là năm Khai Thành thứ ba, Ông đã sáu mươi bảy tuổi, râu đã bạc, đầu hói một nửa, răng khuyết hai chiếc, mà cái vui trong thơ tửu vẫn chưa say.
Ngảnh lại bảo vợ con rằng:
“Mình ta từ nay về trước sướng rồi, còn cái mình ta từ nay về sau chưa biết vui thế nào nữa.”
(PHAN KẾ BÍNH dịch - Việt Hán văn khảo - Nam Ký 1938)
ĐỖ PHỦ, tự Tử Mỹ, xưng là Thiếu-lăng Dã-lão, thi Tiến sĩ không đỗ, làm Quan thời Đường Minh Hoàng. Sau cuộc loạn An Lộc Sơn, vua Túc Tôn cho làm chức Tả thập di, rồi bỏ quan về nhà. Sau theo Nghiêm Vũ sang đất Thục, làm chức Viên-ngoại-công. Trong ba người nổi tiếng thơ, hầu như Đỗ Phủ ít ca tụng rượu như Lý Bạch và Bạch Cư Dị, nhưng ông lại chết vì... say rượu.
Chỉ có vài bài thơ của ông đề cập đến chất men nồng, như trong “Ngày Xuân nhớ Lý Bạch”:
“Bao giờ rượu ngọc một bình, “Cùng nhau ta uống, bàn rành văn thơ
Chỉ trong bài “Lạc nhật”, có lẽ Đỗ Phủ mới thấm thía cái thần diệu “lãng quên đời” của thần ma men:
“Rượu kia ai chế ra mày “Uống xong một cuộc tan ngay nghìn sầu.
Còn Lưu Linh sống vào đời Tấn, tự Nguyễn Lãng, tên chữ là Bá Luân, một trong bảy ông hiền ở Trúc Lâm, một tay phóng lãng theo đạo Lão, rất thích rượu, vợ con can mà chẳng bao giờ nghe, được tặng là Túy Thánh. Có làm bài Tửu đức Tụng.
Rượu trong Văn Học Vietnam:
Người Việt chịu ảnh hưởng của Nho gia, nên kẻ có học ngày xưa được coi thuộc dân lịch lãm thời phải biết uống rượu, làm thơ, đánh đàn, chơi cờ (cầm, kỳ, thi, tửu)... Uống rượu nhiều được phong tặng là đệ tử Lưu Linh. Chính vì vậy mà các nhà Văn, nhà Thơ trước đây của chúng ta thường có những bài nhuốm mùi men Rượu là thế.
Sử Việt đề cập chuyện vua Đinh Tiên Hoàng vì say rượu bị Đỗ Thích ám sát lúc đang ngủ. Con trai lớn là Đinh Liễn cũng bị giết vào lúc đó.
Phan Kế Bính tả “Phong cảnh Kiếp Bạc” nơi Hưng Đạo vương Trần quốc Tuấn khi về trí sĩ, ngài danh tướng cũng thi tửu như mọi kẻ sĩ thời xưa:
“Đại vương khi nhàn rê trượng trúc, “Theo sau một vài gã tiểu đồng. “Khi đeo bầu rượu qua sườn núi, “Lúc dạo cung đàn bơi giữa dòng”
Nguyễn Khuyến thường mượn Rượu nói dùm mình:
“Câu thơ được chửa, thưa rằng được. “Chén rượu say rồi nói chửa say. “Kẻ ở trên đời lo lắng cả, “Nghĩ ra ông sợ cái ông này.” (Cảm hứng 1)
“Hé miệng nói ra gàn bát sách, “Mềm môi chén mãi tít cung thang.” (Tự trào)
“Những lúc say sưa cũng muốn chừa, “Muốn chừa nhưng tính lại hay ưa. “Hay ưa nên nỗi không chừa được, “Chừa được nhưng mà cũng chẳng chừa.” (Chừa rượu)
“Rượu ngon đến bữa nghiêng bầu giốc “Chữ dại đầu năm sổ túi ra. (Xuân hứng)
“Khi buồn chén rượu say không biết “Ngửa mặt lờ mờ ngọn núi xa (Túy cảm)
“Thơ Lý ngâm nga khi mở quyển “Đàn Nha tình tính lúc lần dây “Đem cờ vua Thích vui bè bạn “Mượn chén ông Lưu học tỉnh say (Nhân sinh thích chí)
“Lúc hứng đánh thêm ba chén rượu “Khi buồn ngâm láo một câu thơ (Lão cảm)
“Nghĩ đời mà lại chán cho đời “Co cóp làm sao được với trời “Chép miệng lớn đầu to cái dại “Phờ râu chịu đấm mất phần xôi “Được thua hơn kém lưng hồ rượu “Hay dở khen chê một trận cười “Dựa gối bên mành toan hóa bướm “Gió thu lạnh lẽo lá vông rơi (Ngẫu hứng)
“Mùi thế thử chơi không chếnh choáng “Giọng tình mới nhắp chửa say sưa (Tặng bạn mở ty rượu)
“Chén chú chén anh chén tôi chén bác “Cuộc tỉnh say say tỉnh một vài câu (Hỏi ông phỗng đá)
Với Dương Khuê thì hơi rượu trong thơ ông thoang thoảng trong vài nơi chứ không đậm nồng như ở các bài phong tình.
“Thức hay ngủ cớ sao nằm vậy “Hãy tung màn gượng dậy làm vui “Tiện đây hỏi một đôi lời “Lòng chiều khách đã xuôi xuôi thế chửa “Đàn cầm sắt gẩy chơi lúc nữa “Rượu hồng hoa còn chứa nữa hay không “Nàng vâng xin cũng chiều lòng (Thăm cô đào ốm)
“Thú tiêu sầu rượu rót thơ đề “Có yến yến hường hường thời mới thú (Tài tình)
“Rượu một bầu thơ ngâm một túi “Góp gió trăng làm bạn với non sông (Chơi trăng)
Nói đến rượu mà quên đề cập đến Phạm Thái kể như là một thiếu sót đáng kể. Phạm Thái hiệu là Đan Phượng, thường gọi là Chiêu Lỳ, người mà Khái Hưng cảm khái viết ra truyện “Tiêu Sơn tráng sĩ”, một trang Anh hùng có thể chết vì ánh mắt giai nhân Trương Quỳnh Như. Khi nhà Tây Sơn ra đánh Bắc Hà, Phạm Thái bỏ đi tu, lấy hiệu là Phổ Chiêu thiền sư. Phạm Thái sinh thời, rất thích Rượu và sính Thơ nhưng lại có tính ngông:
“Có ai muốn biết tuổi tên gì, “Vừa chẵn ba mươi gọi chú Lỳ, “Năm bảy bài thơ gầy gối hạc. “Một vài đứa trẻ béo răng nghê. “Tranh vờn sơn thủy màu nhem nhuốc, “Bầu dốc kiền khôn giọng bét be, “Miễn được ngày nào cho sướng kiếp, “Sống thì nuôi lấy, chết chôn đi. (Tự trào)
“Một tập thơ sầu ngâm đã chán “Vài be rượu nhạt uống ra gì “Thôi về tiên phật cho xong kiếp “Đù ỏa trần gian sống mãi chi? (Cảm thán)
Nhưng bài sau đây có lẽ biểu lộ tính ngông trần đời của Chiêu Lỳ hơn hết: “Sống ở trần gian đánh chén nhè “Chết về âm phủ cắp kè kè “Diêm vương phán hỏi mang gì đó: “- Be! “
Khi Quỳnh Như không còn ở cõi đời, Phạm Thái có làm bài thơ khóc giai nhân: “Buồn đốt lò vàng hương nhạt khói “Sầu châm chén ngọc rượu không hơi “................................. “Oanh ru bên trướng giấc hoa nồng “Say tỉnh hồn mai nhớ lại mong”
Nhà thơ họ Phạm cũng chẳng ở cõi đời lâu. Ông chết lúc 35 tuổi.
Còn Trần Tế Xương, ông Tú đất Vị Xuyên, trong bài “Ngẫu hứng”, cũng không kém đệ tử Lưu Linh: “Được tiền thì mua rượu, “Ruợu say rồi cỡi trâu. “Cỡi trâu thế mà vững, “Có ngã cũng không đau.” (Ngẫu hứng)
hay ngậm ngùi cho sự Bất đắc chí của ông trong bài “Say rượu”: “Đời này thực tỉnh những ai đây? “Ai tỉnh cho ta chịu tiếng say. “Buồn ruột cho nên men phải nhấp, “Dở mồm nào biết giọng là cay. “Bạn cùng quỉ dẫy chi cho bận, “Vui với ma men thế cũng hay. “Ngất ngưởng hai tay vơ đũa chén, “Đố ai đã được cái say này.
Nhưng dẹp nỗi buồn bất chí mà vẫn đeo đuổi mộng nam nhi, có lẽ không thi nhân nào sánh được với Nguyễn công Trứ (1778-1859). Cuộc đời “lên voi xuống chó” của nhà Thơ và cái hùng tâm của Uy Viễn tướng công là một gương sáng cho hậu thế, nhưng không thiếu hơi hám của Rượu trong Thơ: “Thơ một túi, phẩm đề câu nguyệt lộ “Rượu ba chung, tiêu sái cuộc yên hà (Cầm kỳ thi tửu)
“Trời đất cho ta một cái tài, “Giắt lưng dành để tháng ngày chơi. “Dở duyên với rượu không từ chén, “Trót nợ cùng thơ phải chuốt lời. “Cờ sẵn bàn sơn, xe ngựa đó, “Đàn còn phím trúc, tính tình dây. “Ai say, ai tỉnh, ai thua được, “Ta mặc ta, mà ai, mặc ai. (Cầm kỳ thi tửu)
“Lưng bầu rượu say cổ kim kim cổ “Một túi thơ vui hoa nguyệt nguyệt hoa (Kiếp nhân sinh)
“Hẹn với lợi danh ba chén rượu “Vui cùng phong nguyệt một bầu thơ (Thoát vòng danh lợi)
“Trót đà khuya sớm với ma men, “Mặc kệ người chê, mặc kệ khen. “Ngó lại hàng rào hương cúc lộn, “Trông ra cửa sổ bóng trăng chen. “Vào vòng cương tỏa chân không vướng, “Tới cuộc trần ai, áo chẳng hoen. “Cứ những ai hay tình thú ấy, “Có chăng Bành trạch với Thanh Liên. (Uống rượu tự vịnh)
Chu Thần Cao Bá Quát, đất Bắc Ninh, đỗ Cử nhân năm Minh Mệnh 12, làm Giáo thụ ở Quốc Oai (Sơn Tây) , nổi tiếng văn hay chữ tốt, đến Vua Tự Đức phải ca tụng “Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán” song không được đắc dụng vì kiêu ngạo khác đời. Năm Tự Đức thứ 8 (1854) theo Lê duy Cự làm phản, bị bắt và xử tử.
Sinh thời Ông vì bất mãn cuộc đời, yếm thế nên ông mượn thơ, uống rượu mà ca tụng cảnh nhàn: “Ba vạn sáu nghìn ngày là mấy, “Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười “Thôi công đâu chuốc lấy sự đời “Tiêu khiển một vài chung lếu láo. “Đoạn tống nhất sinh duy hữu tửu, “Trầm tư bách kế bất như nhàn
Sang đến thế kỷ 20, Việt Nam ta có một số thi sĩ nổi danh đã coi rượu như một người tình không thể thiếu, trong đó có Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu. “Rượu thơ mình lại với mình, “Khi vui quên cả cái hình phù du. “Trăm năm thơ túi rượu vò. “Nghìn năm thi sĩ tửu đồ là ai? (Còn chơi)
“Công danh sự nghiệp mặc đời “Bên thời be rượu, bên thời bài thơ. (Tản Đà xuân sắc, 1953)
Nhà thơ núi Tản sông Đà yêu văn chương lẫn rượu nồng đến nỗi người bạn Tú Mỡ Hồ trọng Hiếu phải làm thơ nói về ông: “Từ khi Hiếu xuất thế, “Vẫn nhớ cảnh thiên tiên: “Bữa cơm thường phải rượu, “Nhưng túi lại rỗng tiền. * “Liền xoay nghề văn chương, “Viết bừa bán phố phường. “Thơ chạy tha hồ uống, “Say khướt suốt đêm trường. * “Rượu ngon thức nhắm ngon. “Giọng văn lại càng giòn; “Khối tình con, tình lớn, “Giấc (mộng) lớn, mộng con. (Trời đày Nguyễn Khắc Hiếu - Giòng nước ngược I)
Nhưng để công bằng với bạn, Tú Mỡ cũng “nói xấu” về mình: “Có một anh, “Biếng lười như hủi. “Cờ bạc như tinh, “Rượu chè như quỉ. “Trai gái như ranh. (Xoay hòn đất)
“Tom chát quanh năm vài bốn bận, “Say sưa mỗi tháng một đôi ngày “Tính vui trò chuyện cười như phá, “Lòng thẳng căm hờn nói toạc ngay (Tự thuật)
Riêng Hàn Mặc Tử mô tả hơi rượu trong thơ rất khác đời, cho ta cái cảm giác của một khúc phim kinh dị quái đản: “A ha hả! say sưa chê chán đã “Ta là ta hay không phải là ta? “Có gì đâu, cả thể với cao xa, “Như cội rễ của trăm nguồn đạo hạnh. “Hớp rượu mạnh, máu càng hăng sức mạnh. “Ôi điên rồ! khoái lạc đến ngất ngư. “Thương là thương lòng mình giận chưa nư “Hồn vội thoát ra khỏi bờ trí tuệ. (Siêu thoát)
Có thể nói tình bạn của người xưa đậm nồng trong chung trà chén rượu, nên Ưu Thiên Bùi Kỷ cũng chẳng khác gì Nguyễn Khuyến khi nhớ đến người bạn đã qui tiên: “Ta cùng bác quen nhau đã lâu, “Khi thơ lưng túi, rượu lưng bầu. “Trời đất yêu ta, ta ở lại, “Non sông nhớ bác, bác đi đâu? (Viếng bạn)
Riêng nhà thơ Đỗ huy Nhiệm lại có một nỗi nhớ khác bên ly rượu: “Buồn ở đâu theo tối xuống rồi, “Đã tràn u ám cả hồn tôi “Đang ngồi say khướt bên ao vắng “Thơ thẩn nhớ người không nhớ tôi. ... “Qua đã say rồi, nay lại say, “Rượu vơi, buồn vẫn lẩn đâu đây. “Nghiêng hồ tôi rót cho đầy chén “Để giữ người yêu hết trọn ngày. * “Nàng chỉ thăm tôi những lúc buồn, “Khi hồ đầy rượu, buổi hoàng hôn, “Lúc hồn chuếnh choáng say say ấy “Rồi lại quay về tận cuối thôn. .... “Chiều nay nàng đến trong ly rượu “Tôi uống vơi vơi hết cả nàng. “Tôi uống dặt dè từng hớp một, “Sợ mai nàng bận chẳng buồn sang. * “Trăng đã lên cao. Rượu cạn rồi, “Cả nàng đã đẫm cả hồn tôi. “Ngày mai rượu hết nghiêng hồ rỗng “Vét chút hương còn ép sát môi. (Say - Tiểu thuyết thứ 5)
Cũng là Say ta thấy trong Mê Hồn Ca của Đinh Hùng có một âm điệu quyến rũ lạ lùng: “Ta bắt em cười, nói, bắt em say, “Ta đòi lấy mảnh linh hồn bỡ ngỡ. “Ôi! ly rượu em dâng toàn huyết đỏ, “Ta uống cùng dòng lệ chảy đêm xưa (Ác mộng)
“Ôi gác ca lâu, rèm buông, lửa đỏ! “Ôi mộng xuân lả lướt những đêm tình! “Cốc rượu hồng, hy vọng sáng rung rinh, “Mùi son phấn khác gì hương trinh bạch? (Hương trinh bạch)
Vũ hoàng Chương, ông anh rể của Đinh Hùng, là một thi sĩ tài hoa, một phù thủy của âm thanh, vần điệu. Đậu Tú tài Pháp, bỏ học Luật đi làm công chức hỏa xa rồi dạy học. Tuy tây học, nhưng ông lại uyên thâm về Nho học và nhiều thi phẩm của nhà Thơ đã được dịch ra ngoại quốc. Tác phẩm đầu tay của Vũ hoàng Chương là tập “THƠ SAY” (Xuất bản 1940): “Em ơi lửa tắt, bình khô rượu “Đời vắng em rồi, vui với ai?
Bài “Chén Rượu Đôi Đường” thì đậm mùi cay đắng: “Nhưng đêm nay dịu quá “Không trăng có hề chi! “Say sưa tràn miệng cốc “Cùng nâng hãy uống đi “Trùng lai đâu dễ hẹn kỳ “Đò ngang một chuyến chắc gì mai sau “ “Giờ đây chia đôi ngả “Sông nước càng tiêu sơ “Hồn men cay như quế “Hồn men đắng như mơ. “Đắng cay này chén tiễn đưa “Uống đi, uống để say sưa ngập lòng. * “Cạn đi và lại cạn “Say rồi gắng thêm say “Bao nhiêu mơ mà đắng “Bao nhiêu quế mà cay “Đắng cay trút xuống bàn tay “Nắm tay lần trót, thuyền quay mũi rồi * “Thuyền anh đi thôi nhé “Xa nhau dần xa nhau “Tôi về trên lưng ruợu “Đến đâu thì đến đâu “Có ai say để quên sầu “Lòng ta lảo đảo càng sâu vết buồn. ..................................................................................................................................
Thơ (Rượu)
HỒ TRƯỜNG Nguyễn Bá Trac
Đại trượng phu không hay xé gan bẻ cật phù cương thường Hà tất tiêu dao bốn bể lưu lạc tha phương Trời nam nghìn dặm thẳm Non nước một màu sương Chí chưa thành, danh chưa đạt Trai trẻ bao lăm mà đầu bạc Trăm năm thân thế bóng tà dương Vỗ gươm mà hát Nghiêng bầu mà hỏi Trời đất mang mang ai người tri kỷ Lại đây cùng ta cạn một hồ trường. Hồ trường! Hồ trường! Ta biết rót về đâu Rót về Đông phương, nước biển Đông chảy xiết sinh cuồng loạn Rót về Tây phương, mưa phương Tây từng trận chứa chan Rót về Bắc phương, ngọn Bắc phong vi vút cát chạy đá giương Rót về Nam phương, trời Nam mù mịt có người quá chén như điên như cuồng. Nào ai tỉnh, nào ai say Lòng ta ta biết, chí ta ta hay Nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ Hà tất cùng sầu đối cỏ cây.
Trần Mộng Tú Thanh Xuân
Giao thừa ta độc ẩm Tiễn bước thời gian đi Ly đầy rồi ly cạn Nào có nghĩa lý gì
Một ly cho cuộc đời Ôi cuộc đời đáng nản Một ly cho trái tim Ôi trái tim lãng mạn
Một ly cho bàn tay Bàn tay không đeo nhẫn Một ly cho thanh xuân Thanh xuân không bất tận
Ly đầy rồi ly cạn Ta đã thực say chưa Ôi làm thân con gái Ai ướp men bao giờ
Ly đầy rồi ly cạn Ta đang khóc phải không Ôi làm thân con gái Mà độc ẩm đêm xuân
Ngoài trời ngọn đông phong Ta đốt vội nến hồng Trong gương ta bắt gặp Giọt lệ của thanh xuân
............................................ Rượu với Kim Dung Nhưng luận về Rượu, không ai qua mặt được Kim Dung trong Tiếu Ngạo Giang Hồ khi cho Tổ Thiên Thu dạy cho Lệnh Hồ Xung nghệ thuật uống Rượu của một tửu đồ. Dưới đây là đoạn xuất hiện của Tổ Thiên Thu gặp gỡ Lệnh Hồ Xung (Thân Hữu đọc chơi trong 3 ngày Tết).
“Thư sinh từ từ bước ra xá dài tận đất nói: - Tôn giá cùng tại hạ vốn chưa quen biết, mới có duyên bèo nước một lần ngửi hơi rượu đã là quấy quá. Khi nào còn dám xuống đòi uống rượu ngon của huynh đài. Cái đó không được! Nhất định không được. Lệnh Hồ Xung cười nói: - Anh em bốn bể cũng trong một nhà. Nghe lời huynh đài, tiểu đệ biết ngay huynh đài là một bậc tiền bối ở “tửu quốc”. Tại hạ đang cần thỉnh giáo, mời huynh đài xuống thuyền, không nên khách sáo. Thư sinh từ từ bước ra xá dài tận đất nói: - Vãn sinh này họ Tô. Ngày trước Tô Địch nghe tiếng gà gáy là dậy múa gươm. Lão nhân gia là thủy tổ của vãn sinh đó. Tên vãn sinh là Thiên Thu, ý nói thiên thu vạn tuế. Chưa hiểu tôn tính đại huynh đài là gì? Lệnh Hồ Xung đáp: - Tại hạ họ Lệnh Hồ tên Xung. Tổ Thiên Thu nói: - Cái họ đã hay, cái tên lại càng hay! Y vừa nói vừa nhảy xuống thuyền. Lệnh Hồ Xung tủm tỉm cười nghĩ bụng: - Ta đã mời ngươi uống rượu thì cái gì của ta ngươi chẳng khen hay? Hắn rót rượu ra bát đưa cho Tổ Thiên Thu mời uống. Tổ Thiên Thu đã ngoài 50 tuổi, da mặt vàng khè, dưới cằm lún phún mấy sợi ruâ thưa thớt. Áo quần dây dầu mỡ. Y giơ hai bàn tay tay ra thì mười đầu ngón tay, ngón nào cũng cáu ghét đen sì rất là dơ bẩn. Tổ Thiên Thu thấy Lệnh Hồ Xung đưa bát rượu tới, y không tiện đón lấy, liền nói: - Lệnh Hồ huynh tuy có rượu ngon mà lại không có đồ dùng tốt. Đáng tiếc! Thật là đáng tiếc! Lệnh Hồ Xung nói: - Dọc đường chỉ có chén sành bát đàn, Tổ tiên sinh dùng tạm vậy. Tổ Thiên Thu vẫn lắc đầu quầy quậy: - Không được! Nhất định không được! Lệnh Hồ huynh dùng khí cụ này uống rượu không được. Thật là đầu Ngô mình Sở, chưa hiểu cách uống rượu. Uống rượu cần nghiên cứu về đồ dùng. Uống thứ rượu nào phải dùng chén nấy. Uống rượu đất Phần phải dùng chén ngọc. Người Đường có câu thơ: Ngọc uyển thình lai hổ-phách quang. (Chén ngọc long lanh màu hổ phách). Như vậy đủ tỏ chén ngọc làm cho sắc rượu thêm phần rực rỡ. Lệnh Hồ Xung nói: - Chính thế! Tổ Thiên Thu lại nói: - Rượu trắng ở ngoài quan ải uống rất ngon nhưng đáng tiếc mùi vị không đủ thơm tho. Hay hơn hết là lấy sừng tê giác làm chén để rót rượu vào mà uống. Có như thế thì rượu mới thuần mỹ phi thường. Ta nên nhớ chén ngọc làm cho rượu thêm màu sắc, sừng tê cho rượu thêm hương vị. Cổ nhân đã quả không lầm. Lệnh Hồ Xung trước nay chỉ thích phẩm chất hơn là vỏ ngoài. Có điều hắn chỉ kết giao với khách hào kiệt giang hồ, họ chỉ biết phân biệt rượu ngon hay rượu nhạt, cũng là khó rồi, còn ai thảo luận đến chén ngọc chung tê? Lệnh Hồ Xung lúc này nghe Tổ Thiên Thu nói thao thao bất tuyệt thì khác nào ở trong bóng tối nhìn ra ánh sáng. Tổ Thiên Thu nói tiếp: - Đến như rượu bồ đào thì dĩ nhiên phải dùng chén dạ quang. Cổ nhân có câu thơ: “Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi, Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi...” (Bồ đào rót chén dạ quang, Tiếng đờn đã dục lên đường mau mau). Chén dạ quang là vật trân quý hiếm có ở đời. Rượu bồ đào đã có màu hồng mà bọn nam nhi chúng ta uống vào thì không đủ hào khí. Chén dạ quang phát ra ánh sáng mới là tuyệt diệu! Rượu bồ đào rót vào chén dạ quang, lập tức màu rượu đỏ như huyết. Uống rượu cũng như uống huyết. Trong bài từ của Nhạc ngũ Mục có câu: “Tráng chí cơ xan hồ lỗ nhục, Tiếu đàn khát ẩm Hung Hô huyết”, nghĩa là: Chí khí của người tráng sĩ lấy thịt của rợ Hồ làm cơn ăn, cười nói đến khi khát nước thì uống máu giặc Hung Nô. Như vậy có phải hùng tráng không? Lệnh Hồ Xung gật đầu lia lịa, nhưng hắn đọc sách rất ít. Hắn nghe Tổ Thiên Thu dẫn chứng bằng những câu thơ mà hắn không hiểu rõ nghĩa, chỉ lập đi lập lại câu: “Tiếu đàn khát ẩm Hung Nô huyết” mà hào khí ngất trời, trong lòng khoan khoái. Tổ Thiên Thu lại nói: - Còn thứ rượu ngon này là rượu tối cổ ngẫu nhiên có người đem cho, ngẫu nhiên mà uống. Nó là rượu cao lương. Thứ rượu này phải dùng chén “tước” đúc bằng đồng xanh mới là có ý cổ kính. Thứ gạo làm rượu này cũng là thật tốt, nó vừa ngọt vừa thơm, nên dùng thứ đẩu lớn mà uống mới hợp ý rượu. Lệnh Hồ Xung nói: - Tại hạ là kẻ lỗ mãng đã không rõ chất rượu, cũng không hiểu đồ dùng. Nghiên cứu như huynh đài thật là hiếm có. Tổ Thiên Thu trỏ vào hũ rượu đề bốn chữ “Bách thảo mỹ tửu” nói: - Thứ bách thảo mỹ tửu này là hái trăm thứ hoa thơm cỏ lạ ngâm vào trong rượu, nên mùi thơm phảng phất như đi chơi ngoài nội ngày xuân, khiến người ta chưa uống đã say. Uống thứ bách thảo tửu nên dùng chén cổ đằng (làm bằng cây song cổ). Cây cổ đằng phải đủ trăm năm thì mới khoét thành chén được. Uống rượu bách thảo bằng chén cổ đằng mùi thơm càng tăng lên bội phần. Lệnh Hồ Xung nói: - Cây sống trăm năm khó mà tìm được. Tổ Thiên Thu nghiêm sắc mặt nói: - Lệnh Hồ huynh nói sai rồi! Rượu bách thảo mỹ tửu so với bách niên cổ đắng còn khó kiếm hơn nhiều. Lệnh Hồ Xung vội chữa: - Té ra là thế! Tại hạ không hiểu. Mong tiên sinh chỉ giáo. Tổ Thiên Thu lại nói: - Uống thứ rượu Thiệu Hưng trạng nguyên Hồng này cần phải dùng thứ chén sành cổ mà là chén sành đời Bắc Tống, Nếu không có thì dùng tạm thứ chén của Nam Tống vậy. Dùng chén Nam Tống đã là khí thế suy kém rồi. Còn dùng đồ sành đời Minh thì nhỏ mọn quá. Uống rượu Lê Hoa phải dùng chén Phí Thúy. Lệnh Hồ huynh thử nghĩ coi trước cửa quán rượu Lê Hoa ở Hàng Châu có treo cờ xanh để ánh vào rượu Lê Hoa cho thêm vẻ huyền ảo. Nên uống rượu Lê Hoa phải dùng chén Phí Thúy là vì lẽ đó. Uống thứ ngọc lộ tửu này phải dùng chén lưu ly. Rượu ngọc lộ sủi tăm như hạt châu rót vào chén lưu ly (pha lê) để trông rõ bên trong, cho phân biệt rượu ngọc lộ với thứ rượu khác...”
Chưa kể Kim Dung còn bàn một loại rượu cực độc mà Lam Phụng Hoàng cho Lệnh Hồ Xung uống khiến Nhạc Bất Quần và chúng đệ tử phái Hoa Sơn phải thất kinh hồn vía: “Khi dùng đỉa chuyển máu cho Lệnh Hồ Xung đã hết, Lam Phụng Hoàng của Ngũ độc giáo thấy Lệnh Hồ Xung đã tỉnh, bèn cười hỏi: - Đỉa nước dùng nhẵn hết cả rồi! Tối nay tiểu muội đi bắt thêm ít nữa đặng sáng mai chuyển máu sang cho đại ca. Đại ca!... đại ca muốn ăn gì không? Tiểu muội đi lấy chút thức ăn cho đại ca điểm tâm nhé? Lệnh Hồ Xung đáp: - Điểm tâm thì tiểu huynh không cần đâu, mà chỉ thích uống rượu. Lam Phụng Hoàng nói: - Cái đó dễ lắm! Bọn tiểu muội cất lấy được thứ rượu kêu bằng “ngũ bảo hoa mật tửu”. Đại ca thử nếm coi! Đoạn nàng líu lo mấy câu tiếng Miêu. Bốn cô gái vâng lệnh đi ngay. Chỉ trong khoảnh khắc các cô đã về thuyền nhỏ lấy sang tám bình rượu, các cô mở nút bình rót rượu ra bát. Lập tức một mùi hương thơm ngào ngạt tỏa ra khắp cả khoang thuyền. Lệnh Hồ Xung nói: - Hảo muội tử! Thứ rượu này của muội tử cất đấy ư? Mùi thơm nặng quá, có lẽ chuyên để cho đàn bà con gái uống? Lam Phụng Hoàng đáp: - Phải thơm thế mới át được mùi tanh. Lệnh Hồ Xung hỏi: - Trong rượu có rắn độc ư? Lam Phụng Hoàng đáp: - Đúng thế! Rượu kêu bằng Ngủ bảo hoa mật tửu, dĩ nhiên phải dùng ngũ bảo. Lệnh Hồ Xung hỏi: “Ngũ bảo là gì?” Lam Phụng Hoàng đáp: - Ngũ bảo là 5 thứ bảo bối ở trong giáo phái bọn tiểu muội. Đại ca hãy coi đây! Nàng nói xong lấy hai cái bát không, dốc bình lên cho rượu chảy hết ra. Bỗng nghe mấy tiếng lạch cạch nhỏ của vật gì rớt xuống bát. Mấy tên đệ tử Hoa Sơn trong thuyền vừa trông thấy đã kinh hãi bật tiếng la hoảng. Lam Phụng Hoàng cầm bát rượu đưa đến trước mặt Lệnh Hồ Xung, chàng thấy màu rượu trong trắng như nước suối. Trong rượu có ngâm năm con trùng độc là: một con rắn đen, một con rít, một con nhện, một con bọ cạp và một con trăn nhỏ bằng đầu ngón tay. Lệnh Hồ Xung sợ giật bắn người, hỏi: - Sao lại lấy những con trùng độc này... cho vào rượu? Lam Phụng Hoàng bĩu môi đáp: - Đó là ngũ bảo, sao lại nói là “trùng độc”? Đại ca! Đại ca có dám uống không? Lệnh Hồ Xung gượng cười đáp: - Cái... ngũ bảo này... tiểu huynh hơi sợ một chút. Lam Phụng Hoàng bưng bát rượu lên uống một hụm lớn rồi cười nói: - Theo luật lệ của người Miêu tộc bên tuổi muội, đã là bạn thì phải uống rượu ăn thịt. Bạn mà không ăn không uống thì chẳng còn gì là bạn nữa. Lệnh Hồ Xung đón lấy bát rượu nốc ừng ực vào bụng. Chàng nuốt luôn năm con trùng độc xuống. Tuy chàng lớn mật mà cũng không dám nhai tóp tép. Lam Phụng Hoàng cả mừng thò tay ra ôm chặt lấy đầu cổ chàng rối áp má kề vào bên. Son phấn ở môi miệng nàng in thành hai vết hồng trên mặt chàng. Nàng cười nói: - Có thế mới là hảo ca ca! Lệnh Hồ Xung bật cười, nhưng chàng vừa đưa mắt nhìn thấy vẻ mặt sư phụ cực kỳ nghiêm trọng thì trong lòng kinh hãi, nghĩ thầm: - Hỏng bét, hỏng bét! Mình lớn mật làm nhộn ở ngay trước mặt sư phụ cùng sư nương, nhất định sẽ bị người thống mạ. Lam Phụng Hoàng lại rót một bát lớn có cả năm con trùng độc bưng đến trước mặt Nhạc Bất Quần. Nàng cười nói: - Nhạc tiên sinh! Tại hạ mời tiên sinh uống rượu. Nhạc Bất Quần thấy rượu ngâm toàn trùng độc nào rắn, nào rết, nào nhện... đã buồn nôn lại ngửi thấy mùi hương hoa nồng nặc lẫn vào thành ra một mùi khê nằng nặc khó tả. Tiên sinh không nhịn được ọe lên, cơ hồ phải mửa ra. Tiên sinh đưa tay trái về phía Lam Phụng Hoàng đang cầm chung rượu. Không ngờ nàng vẫn không rụt tay về. Khi ngón tay sắp chạm vào lưng bàn tay nàng, Tiên sinh chợt nhớ tới câu: “nam nữ thọ thọ bất tương thân”, đột nhiên dừng tay lại. Lam Phụng Hoàng cười hỏi: - Tiên sinh không lớn mật bằng đồ đệ thì làm sư phụ thế nào được? Các bạn hữu phái Hoa sơn! Có ai uống chung rượu này không? Trong thuyền im phăng phắc, không ai lên tiếng. Lam Phụng Hoàng thở dài nói: - Trong phái Hoa Sơn, trừ Lệnh Hồ Xung ra, không còn một mặt anh hùng hảo hán nào khác. Bỗng có một tiếng dõng dạc cất lên: - Đưa đây cho tại hạ uống. Người nói câu này chính là Lâm Bình Chi. Chân chàng bị điểm huyệt không nhúc nhích được. Lam Phụng Hoàng giương cặp lông mày lên cười nói: - Té ra là... Nàng mới nói được hai tiếng, Nhạc Linh San đã ngắt lời: - Tiểu Lâm Tử! Ngươi mà uống cái “rượu con khỉ” đó vào, thì dù không bị chất độc làm cho uổng mạng, từ đây ta cũng không thèm ngó mặt ngươi nữa! Lam Phụng Hoàng bưng chung rượu đến trước mặt Lâm Bình Chi cười nói: - Đây! Ngươi uống đi! Lâm Bình Chi rụt rè nói: - Tại hạ... không uống nữa. Chàng thấy Lam Phụng Hoàng nổi lên tràng cười rộ không ngớt, tức quá, đỏ mặt lên, nói: - Ta không uống rượu đó chẳng phải là ta sợ chết... Lam Phụng Hoàng cả cười ngắt lời: - Dĩ nhiên ta biết rồi! Ngươi sợ là sợ vị cô nương xinh đẹp kia không dòm ngó đến nữa. Ta có bảo ngươi là con quỷ nhát gan đâu, ngươi chính là một hán tử đa tình! Ha ha! Ha Ha!... Nàng chạy đến bên Lệnh Hồ Xung nói: - Đại ca sau này sẽ tái hội! Nàng đặt chung rượu xuống bàn, vẫy tay một cái. Rồi cùng bốn cô gái Miêu ra khỏi khoang thuyền nhảy vọt về con thuyền nhỏ. Bỗng nghe tiếng hát du dương nổi lên. Con thuyền nhỏ xuôi dòng đi về phía đông, vượt lên trước thuyền lớn của phái Hoa sơn lao đi mỗi lúc một xa. Nhạc Bất Quần nói: - Đem bao nhiêu bình rượu của chúng liệng cả xuống sông! Lao dức Nặc dạ một tiếng chạy đến bên bàn. Tay lão vừa sờ vào bình, đột nhiên lảo đảo người đi, té xuống lòng thuyền. Bình rượu vỡ tan tành. Nhạc Bất Quần giật mình kinh hãi hỏi: - Sao vậy? Lao Đức Nặc đáp: - Đệ tử trúng độc. Nhạc Bất Quần tỉnh ngộ nói: - Bình rượu bên ngoài cũng có chất độc. Tiên sinh phất tay áo một cái. Một luồng kình phong hất cả bình lẫn bát chén trên bàn tung qua cửa sổ rớt xuống sông hết. Đột nhiên tiên sinh lại lợm giọng phải cố nhịn cho khỏi nôn ra. Bỗng nghe ọe một tiếng, Lâm Bình Chi mửa thốc mửa tháo ra. Tiếp theo chỗ này có người ho, chỗ kia có tiếng hắng giọng rồi ai nấy ôm bụng mửa ra ồng ộc. Cả Đào Cốc ngũ tiên ở bên ngoài khoang thuyền cho chí lão lái đò, thủy thủ, chẳng một ai không mửa. Nhạc Linh San ôm bụng hỏi Lệnh Hồ Xung: - Đại sư ca!.. Con yêu nữ đó cho... đại sư ca thuốc giải hay sao mà chỉ có một mình đại sư ca là không nôn mửa? Trong thuyền này cả thảy mấy chục người, quả nhiên chỉ có một mình Lệnh Hồ Xung không mửa. Lệnh Hồ Xung đáp: - Ta có uống thuốc giải độc gì đâu? Chẳng lẽ chén rượu độc đó lại là thuốc giải?...” |