Chữ điển phạm (canon) xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ, kanon, với nghĩa là cái nhánh cây được dùng làm thước đo, sau, dần dần có nghĩa là tiêu chuẩn và mẫu mực.
|
Hình: Thinkstock
|
Lời tác giả: Tôi được mời tham dự cuộc hội nghị quốc tế về đề tài "Điển phạm và cái khác trong các nền văn hóa ngoài phương Tây" (Canonicity and Otherness of Non-Western Culture" do trường Korea University tổ chức tại Seoul trong hai ngày 29 và 30 tháng 9. Trong cuộc hội nghị, tôi trình bày một bài thuyết trình chính, "Tính chính trị của việc điển phạm hóa trong văn học Việt Nam" (The politics of canonization in Vietnamese literature", và một bài thuyết trình phụ nhưng nặng về lý thuyết hơn, như một đề dẫn cho một cuộc thảo luận mang chủ đề "Điển phạm hóa và chính trị" (Canonization and politics). Chưa có thì giờ để dịch hai bài thuyết trình này sang tiếng Việt, tôi xin giới thiệu một bài viết về điển phạm đã được in trong cuốn Mấy vấn đề phê bình và lý thuyết văn học (Văn Mới xuất bản năm 2007). Bài viết khá dài nên tôi xin được chia thành bốn phần. Đây là phần thứ hai. NHQ *** Trong bài trước, chúng ta đã tìm hiểu một số sai lầm liên quan đến điển phạm. Nhưng điển phạm là gì?
Ý nghĩa của điển phạm
Chữ điển phạm (canon) xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ, kanon, với nghĩa là cái nhánh cây được dùng làm thước đo, sau, dần dần có nghĩa là tiêu chuẩn và mẫu mực. Ý nghĩa này, thoạt đầu, được sử dụng trong lãnh vực kiến trúc và nghệ thuật tạo hình: sự cân đối trong hình thể và bố cục, yếu tố chính tạo nên vẻ đẹp về hình thức; sau, được Plato khái quát hoá như một trong những lý tưởng hoàn hảo (perfect ideals) mà con người, trong đó có giới nghệ sĩ, phải mô phỏng theo. Có điều, trong tư tưởng của Plato, cái đẹp, cái tốt, sự xuất sắc và sự công chính chỉ là những mặt khác nhau của chân lý, do đó, cái đẹp về nghệ thuật tự động gắn liền với cái tốt về luân lý, từ đó, điển phạm có khuynh hướng nghiêng sang khía cạnh đạo đức và ý thức hệ (1).
Ðiều này làm cho ý nghĩa khái niệm điển phạm càng ngày càng rộng, bao gồm, ít nhất, ba lãnh vực chính.
Về phương diện thần học, điển phạm là toàn bộ những cuốn sách được xem là thánh thư, nơi chứa đựng những chân lý tuyệt đối do Thượng Ðế mặc khải, của một tôn giáo nào đó, từ Phúc Âm của Thiên Chúa giáo đến Koran của Hồi giáo.
Về phương diện văn hoá, điển phạm là toàn bộ những tác phẩm được xem là đạt đến đỉnh cao của triết học và văn học, từ những tác phẩm của Plato, Aristotle, Euripides, Lutarch... thời cổ đại Hy Lạp đến Tứ thư và Ngũ kinh thời cổ đại Trung Hoa, từ những kiệt tác của Chaucer, Cervantes, Shakespeare, Goethe, Joyce, Proust, v.v... ở Tây phương đến những tác phẩm bất hủ trong thể phú đời Hán, thể thơ đời Đường, thể từ đời Tống và thể tiểu thuyết đời Minh và Thanh ở Trung Quốc.
Về phương diện giáo dục, điển phạm là danh sách những tác phẩm được đưa vào chương trình giảng dạy như là những thành tựu tiêu biểu nhất cho từng thể loại hoặc từng thời kỳ, những kho tàng của kiến thức và là những khuôn mẫu để người ta học tập cũng như mô phỏng. Không có nền văn học nào lại không có điển phạm. Ở đâu cũng có điển phạm. Văn học dân gian có điển phạm của văn học dân gian; văn học viết cũng có điển phạm của văn học viết. Ðiển phạm hầu như là một nhu cầu không thể tránh khỏi: nhu cầu lựa chọn và sắp xếp mọi thứ vào một trật tự nhất định để tạo thành một truyền thống hầu bảo tồn những điều người ta cho là có giá trị. Ở Hy Lạp cổ đại, ngay từ thế kỷ thứ hai và thứ ba trước công nguyên, các học giả ở Alexandria đã bắt đầu soạn thảo danh sách những nhà thơ họ cho là đáng nghiên cứu và học tập. Danh sách ấy càng ngày càng được bổ sung và cập nhật (2).
Bởi vậy, có thể nói, điển phạm, một mặt, là trung tâm của lịch sử: nếu không có điển phạm sẽ không có lịch sử văn học; mặt khác, nói như George A. Kennedy, “phản ánh cấu trúc bảo thủ và tôn ti của các xã hội truyền thống.” (3) Ngày xưa, trong cả văn hoá truyền khẩu lẫn văn hoá ký tự, để bảo đảm quyền lực của các điển phạm, người ta đều cầu cứu đến thần quyền, đến loại ngôn ngữ cổ kính và sức mạnh của truyền thống. Sau này, người ta dùng đến cả hệ thống giáo dục và truyền thông đại chúng đồ sộ để củng cố sức mạnh của các điển phạm. Làm thế cũng phải: không có điển phạm sẽ không có việc học tập, sẽ không có việc kế thừa, và do đó, sẽ không có sự phát triển.
Đặc điểm của điển phạm
Điểm chung của điển phạm là: tính chất toàn bích và tính chất thẩm quyền. Về phương diện nghệ thuật và mỹ học, điển phạm phải có tính độc sáng, từ đó, trở thành một dấu mốc nhất định trong tiến trình vận động của nền văn học một nước hoặc một khu vực, và cũng từ đó, có thể được dùng như một chuẩn mực để đánh giá các hiện tượng văn học khác xuất hiện trước hoặc sau nó. Về phương diện tư tưởng, điển phạm phải có cái nhìn thật sâu sắc về nhân sinh và xã hội để tiếp tục cung cấp cho nhiều thế hệ liên tiếp những nhận thức mới giúp họ hiểu rõ hơn về con người cũng như lịch sử, từ đó, cảm thấy có nhu cầu thường xuyên đọc lại. Hơn nữa, về cả phương diện nghệ thuật lẫn tư tưởng, nó phải có khả năng gợi mở để không ai có thể có cảm giác là mình đã vắt kiệt tài nguyên bên trong nó: nói cách khác, điển phạm là cái gì giàu có hơn mọi khả năng diễn dịch và phân tích của người đọc.
Ðiều cần lưu ý là, trong lúc các điển phạm mang tính thần học thường ổn định: suốt cả mấy ngàn năm nay, những tín đồ Thiên Chúa giáo vẫn sùng bái các thánh thư; ở Trung Hoa và Việt Nam, các bộ Tứ Thư và Ngũ Kinh vẫn được các nho sĩ sùng bái ít nhất cho đến cuối thế kỷ 19; các điển phạm mang tính văn học thay đổi nhanh hơn: cái cũ dần dần bị quên lãng và cái mới dần dần xuất hiện. Theo Harold Bloom, tất cả những sự sáng tạo mang tính độc sáng mạnh mẽ trong văn học không sớm thì muộn cũng trở thành những điển phạm (4). Theo Jan Gorak, hầu như bất cứ ở đâu có những vị thầy lớn và có ảnh hưởng sâu rộng thì nơi đó có điển phạm (5).
Như vậy, chúng ta thấy ngay một đặc điểm nổi bật khác của điển phạm, ngoài tính toàn bích và tính thẩm quyền vừa nêu, là: tính nhân tạo. Nói cách khác, điển phạm là những sản phẩm của con người, xuất phát từ nhu cầu lựa chọn và đánh giá những thành tựu đáng quý, và do đó, đáng tiếp thu và đáng được thế hệ đương đại và các thế hệ kế tiếp bảo tồn nhất. Howard Felperin viết về mối tương quan giữa các điển phạm và thế giới văn chương nói chung một cách giễu cợt: "Ngày xửa ngày xưa có một loại tác phẩm đặc biệt được xem là Văn Chương, trong đó, có một nhóm tác phẩm được ưu tiên tách ra và không ngớt được biên tập đi biên tập lại, được diễn dịch đi diễn dịch lại, hơn nữa, còn được đem ra giảng dạy. Chính nhóm này được biết đến như là điển phạm hoặc truyền thống. Chúng được xem là tác phẩm của những người có quyền năng sáng tạo, trí tuệ và sự thấu thị như là thần linh." (6)
Là sản phẩm của con người, điển phạm mang tính mục đích, tính chủ quan và tính lịch sử nhất định. Tính mục đích của các điển phạm hầu như lúc nào cũng giống nhau: dùng truyền thống để xây dựng bậc thang giá trị cho những người đương thời, một thứ ngữ pháp cho sinh hoạt văn học nghệ thuật cũng như trí thức của thời đại nói chung. Chủ quan vì bất cứ sự lựa chọn và đánh giá nào cũng đều xuất phát từ những động cơ, những thị hiếu, và đều gắn liền với những trình độ và những phương pháp luận nhất định. Cuối cùng, điển phạm mang tính lịch sử vì chúng chỉ là kết tinh của một số điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội và văn hoá, và khi những điều kiện ấy thay đổi, chúng cũng thay đổi theo. Bởi vậy, điển phạm không phải chỉ là một danh sách những tác phẩm hay những tác giả xuất sắc mà còn là một tự sự về những cách nhìn về văn học của các thời đại khác nhau. Những tự sự ấy vừa kế tục lại vừa đứt đoạn: không có kế tục, sẽ không có truyền thống; nhưng nếu không có đứt đoạn, sẽ không có tiến bộ. Mỗi một trào lưu mới trong văn học đều bắt đầu bằng một nỗ lực giải-điển phạm (decanonization) một số tác phẩm và điển phạm hoá một số tác phẩm khác. Mỗi tác phẩm được nâng lên thành điển phạm đều, với những mức độ khác nhau, trở thành một thứ quy phạm (norm) trong lãnh vực nghệ thuật và mỹ học.
Tất cả những đặc điểm vừa nêu đã được giới nghiên cứu văn học trên thế giới bàn luận sôi nổi trong suốt nhiều thập niên vừa qua. Theo William Calin, trong văn học Pháp, chẳng hạn, suốt thời trung cổ hiếm có tác phẩm nào được yêu chuộng và tôn sùng hơn một thế kỷ. Nguyên nhân, một mặt, xuất phát từ những thay đổi trong ngôn ngữ cũng như phong cách, mặt khác, từ những thay đổi trong ý thức hệ cũng như trong thị hiếu của các tầng lớp quý tộc. Danh sách các điển phạm thời trung cổ như chúng ta có thể nhìn thấy hiện nay chỉ hình thành từ cuối thế kỷ 18 và đặc biệt thế kỷ 19 do các tác giả và học giả theo xu hướng lãng mạn chủ nghĩa xác lập và bản thân những người này cũng không thoát khỏi ảnh hưởng chính trị và văn hoá của thời đại họ sống (7).
Cũng dựa trên nhận thức lịch sử như thế nhưng các nhà nữ quyền luận, những nhà phê bình xuất thân từ các sắc tộc thiểu số tại các quốc gia Âu Mỹ, chủ yếu là những người da đen, và giới cầm bút thuộc thành phần lao động chân tay, đã ra sức chứng minh những cái gọi là điển phạm thực chất chỉ là những gì được kết tinh từ những cách nhìn nhất định, trong đó, ưu thế chủ yếu thuộc về một số người: về phương diện phái tính, đó là phái nam, về phương diện văn hoá, mang tính đặc tuyển, dành riêng cho các tầng lớp thượng lưu hoặc trung lưu cao trong xã hội; về phương diện chính trị, các đế quốc lớn ở Âu Mỹ từng xâm chiếm và thống trị các nước khác một thời gian dài. Chính những thành phần chiếm ưu thế trong xã hội và lịch sử này, từ kinh nghiệm thẩm mỹ và ý thức hệ riêng của họ, đã nhân danh nhân loại nói chung và tính phổ quát trong bảng giá trị văn học, giành quyền quy định tiêu chuẩn của tính điển phạm và quyết định danh sách những tác phẩm được xem là điển phạm. Thực chất những cái gọi là tính nhân loại hay tính phổ quát ấy chứa đựng vô số các thiên kiến về chủng tộc, phái tính và giai cấp. Hậu quả dễ thấy nhất là hầu hết những tác giả bị xem là “khác” đều bị đẩy ra ngoài lề và chìm vào quên lãng (8). *** Chú thích: 1. Xem E. Dean Kolbas (2001), Critical Theory and the Literary Canon, Boulder: Westview, tr. 11-17. 2. George A. Kenedy, “The origins of the concept of a canon and its application to the Greek and Latin classics”, in trong cuốn Canon vs. Culture, Reflections on the Current Debate do Jan Gorak biên tập, New York: Garland, 2001, tr. 106. 3. Như trên, tr. 105. 4. Harold Bloom (1994), sđd, tr. 25. 5. Jan Gorak (1991), sđd, tr. 244. 6. Felperin, Howard (1985), Beyond Deconstruction: The Uses and Abuses of Literary Theory. Oxford: Clarendon, tr.10. 7. William Calin, “Making a Canon”, Philosophy and Literature, số 23, năm 1999, tr. 1-16. 8. Xem Robyn R. Warhol và Diane Price Herndl (biên tập), Feminism, an Anthology of Literary Theory and Criticism, Houndmills: Macmillan Press, tr. 73-163. |