Thư Gửi Trong Gió |
Tác Giả: Hoa-Hoàng-Lan |
Thứ Tư, 08 Tháng 4 Năm 2009 07:37 |
Dung thương mến,
Dung ơi! Sáng nay, cơn mưa lớn vừa trút một lượng nước khổng lồ xuống thành phố em đang ở. Cơn mưa khiến em nhớ đến cơn mưa của Saigon ba mươi ba năm về trước. Và hơn hết, em nhớ Dung, nhớ vô cùng! Em viết thư này cho Dung. Dung ơi, cũng ngày này của ba mươi ba năm trước, hai chị em mình cùng với người dân của thủ đô Saigon đang chạy nhốn nháo để thoát ra khỏi cơn hấp hối của thành phố thân yêu. Dòng người như thác lũ đổ ra các ngả đường, những toan tính cũng rối tung cả lên. Không ai bảo ai là đi hay ở, vì tất cả chỉ có một con đường là lên phi cơ hay xuống tầu thủy. Dung nhớ không? Chị em mình thiếu kinh nghiệm nhưng thừa thì giờ, nên Dung chở em đi khắp nơi để tìm đường thoát thân cho cả gia đình. Em còn nhớ em đã ngây thơ nói với Dung “tìm chỗ nào đi bằng phi cơ, chứ đi bằng tầu thủy, em sợ lắm Dung ơi!”, vì em không bao giờ quên được hình ảnh những người chết trên xà lan, khi di tản từ Đà Nẵng vào Saigon. Dung còn nhớ, em đã lắc đầu quầy quậy khi chú Khâm đưa ra tờ danh sách dài thậm thượt để ghi tên xin đi Úc. Em đã nói với chú rằng “gia đình cháu chỉ đi Mỹ chứ không đi Úc, chú ạ!” Em nhắc với Dung những chi tiết này, để muốn nói với Dung rằng chị em mình khờ khạo và trẻ con quá, vậy mà bố mẹ giao cho mình nhiệm vụ tìm đường di tản, thì thật là tội nghiệp cho gia đình mình. Vì khi đó cấp bách quá rồi, mà mình còn lựa chọn nơi đến, thật là khờ dại. Thân phận người dân như chiếc thuyền con giữa dòng, chỗ nào đến được, cũng sẽ là nơi chốn nương thân tìm tự do. Nhưng có ai dạy chị em mình điều đó đâu Dung nhỉ?
Kết quả là sau ngày mất nước, gia đình mình cũng còn đầy đủ ở Saigon. Ngày quân cướp nước vào, nhà mình vẫn quây quần, không thiếu một ai. Nhưng chưa ai cảm nhận được sự đầy đủ ấy là một nỗi bất hạnh, để sau đó, oan khiên phủ chụp xuống gia đình mình: Bố đi tù không có ngày về. Mẹ lang thang lếch thếch các nẻo chợ mưu sinh để tiếp tế cho Bố và nuôi bầy con dại khờ. Rồi chị em mình lần lượt bỏ học. Dung nghỉ học trước tiên, theo mọi người đi đan giỏ. Sau đó ít lâu, em cũng nghỉ học, theo Dung đi đan giỏ. Bàn tay của chị em mình đã chai sần theo những sợi dây cói cứng và nhám. Nhưng từ những bàn tay ấy, mình có miếng cơm, manh áo để sống còn. Em nhớ mãi hình ảnh Dung chăm chỉ, miệt mài, mím môi dưới ánh điện vàng vọt không đủ sáng, để luồn những sợi dây cói, đan thành những cái giỏ bán ở các chợ. Đôi tay Dung thoăn thoắt, nhưng em biết lòng Dung suy nghĩ lao lung lắm. Dung đã từng nói với em “Chị lo lắm. Ba không biết bao giờ được thả về, mà gia đình anh Dũng cứ đòi... cưới!”. Em đã cười tươi mà bảo “Ai lại lấy chồng bây giờ? Phải chờ Bố về chứ. Dung đi lấy chồng rồi, ai đan giỏ kiếm tiền nuôi tụi em? Một mình Mẹ không nuôi nổi đâu”. Dung mím môi, không nói gì, nhưng đôi mắt đẹp của Dung chớp chớp, bối rối vô cùng.
Rồi trước sự hối thúc của ba mẹ anh Dũng, Dung lên xe hoa về nhà anh Dũng. Em biết Dung khóc ghê lắm, khóc sưng cả mắt. Mẹ đã không dỗ Dung mà còn khóc theo. Em ngạc nhiên lắm. Lấy chồng mà khóc, lạ thật! Em thua Dung bẩy tuổi, còn nhỏ dại quá, nhất định không thể nào hiểu được tại sao khi đi lấy chồng, đám cưới linh đình với bao nhiêu là quần áo đẹp và bao nhiêu là hoa tươi, mà người con gái - cô dâu xinh đẹp, diễm lệ là Dung ấy - lại có thể khóc như trời mưa, trời gió được?
Nhưng rồi, một buổi tối tháng 4, Dung chạy về nhà, dặn dò Mẹ gì đó trong phòng. Dung cũng dặn cả tụi em và tỏ vẻ vô cùng quyến luyến mọi người. Rồi Dung ra xe, có anh Dũng chờ ngoài cửa. Em chạy theo Dung gọi với “Dung ơi! Đi đâu vội thế? Về có tí xíu, đi liền à? Em nói này!”. Anh Dũng đã định chạy xe đi, Dung bảo dừng và Dung nhẩy vội xuống, tháo cái đồng hồ trên tay, nhét cho em và nói “đổi đồng hồ của em cho chị đi. Vào với Mẹ nhanh lên”. Dung cầm tay em, gỡ cái đồng hồ cũ của em, mang vào tay Dung và giục anh Dũng chạy lẹ. Em thấy lạ, nhưng cũng còn đủ tỉnh táo để la lên “đồng hồ em cũ mèm, Dung ơi!”. Rồi xe Dung vụt chạy. Em vào nhà, thấy Mẹ đang thắp nhang trước bàn thờ, hai mắt Mẹ đỏ hoe. Em biết Mẹ mới khóc, nhưng không biết tại sao. Em không dám hỏi, chỉ lẳng lặng, buồn bã nhìn Mẹ. Dung ơi, nếu lúc ấy em biết Dung đã ra đi, nhất định em sẽ chạy theo xin được đi với Dung, vì em thương Dung nhất nhà. Chỉ có hai chị em gái, đúng ra em phải gọi Dung bằng chị, nhưng Dung xưng tên với em và bảo em chỉ gọi bằng tên “Dung” rất thân và rất thương, như hai chị em mình không thể chia lìa được. Thế mà Dung đã đi lấy chồng, rồi Dung lại cùng chồng vượt biên, bỏ Bố, bỏ Mẹ và bỏ hai em lại bơ vơ với lũ giặc dã man. Em nhất định bắt đền Dung. Nếu em gặp lại Dung, em sẽ bắt đền Dung đấy.
Tháng 4 tang tóc của năm 1975, đã khởi đầu bằng những giọt nước mắt của Mẹ khóc ngày Bố khăn gói lên đường đi tập trung cải tạo. Rồi tiếp nối những giọt nước mắt Mẹ khóc ngày Dung lên xe hoa về nhà chồng. Rồi sụt sùi, ẩn giấu bằng những giọt nước mắt của Mẹ khóc ngày Dung vượt biên cùng chồng. Rồi cũng giọt ngắn giọt dài, thâu đêm suốt sáng của Mẹ khi có tin Bố đã bị chết trong trại tù cải tạo ở miền Bắc. Và những giọt nước mắt của Mẹ đã không ngừng chẩy suốt trong những năm tháng còn lại của cuộc đời. Em lớn lên và trưởng thành qua những dòng nước mắt ấy của Mẹ. Dung đi biền biệt, nào có biết để thương Mẹ, thương em, phải không Dung? Dung không phải là người vô tình. Dung cũng không phải là người chỉ biết sung sướng một mình, nhưng sao Dung không nói gì với Mẹ và với em cả, hở Dung? Em ganh với Dung và em giận Dung đấy. Dung ơi! Dung có biết không? Rồi đứa con trai duy nhất của gia đình - thằng Nghĩa của Dung và cũng là anh Nghĩa của em, người anh trai mà em yêu quý nhất - đi nghĩa vụ quân sự, rồi chết bỏ xác bêân Cao-Miên, Dung cũng không có một lời một tiếng nào để an ủi Mẹ? Để ngày phát tang Bố, một mình Mẹ và em chít vành khăn trắng trên đầu. Nhìn tấm ảnh bán thân của Dung treo trên tường, em thầm trách Dung sao nỡ vô tình? Em chỉ trách Dung thôi, nhưng em vẫn yêu quý Dung vô cùng, Dung ạ!
Rồi có người nhờ mai mối, hỏi em làm vợ. Lẽ tất nhiên là em từ chối, vì em không thể bỏ Mẹ một mình để đi lấy chồng như Dung được. Ờ, mà không. Ngày Dung đi lấy chồng, thì Mẹ còn có anh Nghĩa và em. Nếu ngày ấy, nhà mình không còn ai nữa, thì chắc Dung không đi lấy chồng, phải không Dung? Em biết Dung thương yêu Bố Mẹ và hai đứa em lắm. Vì thế, không bao giờ em trách Dung, mà nhiều lúc em lại mừng Dung đã không phải khổ sở, cơ cực như em và Mẹ đang phải chịu đựng. Thà em chịu còn hơn để Dung phải chịu, em thương Dung như thế đấy. Ở nơi xa xôi, Dung có thương em không nhỉ? Có bao giờ Dung nghĩ rằng em thương Dung hơn cả thương Mẹ và thương thân em nữa không hở Dung? Nếu biết ngày ấy, Dung ra đi mãi mãi, thì em nhất định dùng thân xác em để cản ngăn không cho Dung bước xuống tàu. Em và Dung chưa bao giờ xa nhau, và chỉ có một lần xa nhau là xa mãi mãi ư Dung?
Dung không biết được rằng, ngày làm hồ sơ đi Mỹ trong thành phần HO vì Bố chết trong trại cải tạo, Mẹ và em đã nhẹ nhàng, vui vẻ lên đường, vì nhà mình chẳng còn gì để lại cả. Dung thấy không? Bố chết ở miền Bắc. Anh Nghĩa bỏ mình trên đất Miên. Dung đang ở nơi nào, ai mà biết được? Có gì để cầm chân Mẹ và em lại đây nữa, ngoài hai chữ “quê hương” thiêng liêng và đầy xúc động? Quê hương, thôi đành cất để trong đáy lòng thôi, quê hương yêu dấu ạ! Ngày đi bốc mộ Bố, Mẹ đã khóc rấm rứt khi nhìn người thợ hai tay lần mò trong lòng đất cạn, để bươi móc những đám đất đen, mà họ tin rằng đấy chính là da, là thịt, là xương, là máu của Bố chúng mình. Không còn gì nữa Dung ạ! Lấy gì để xác nhận đây là Bố của mình, có chăng là sự xúc cảm cùng cực của Mẹ và em. Tiếng khóc của Mẹ lan tỏa trong khoảng đồng không mông quạnh. Gió đồng nội vi-vu, lòng em tan nát, vỡ vụn như những nắm đất da, thịt, xương, máu của Bố vừa được bới lên. Cũng ở địa danh này, phía xa kia, bên trong hàng rào là trại tù của Bố, nơi Mẹ và em đã có những chuyến thăm nuôi, gặp gỡ và tiếp tế cho Bố. Thế mà... Bây giờ Bố chỉ còn là những nắm đất đen như mạt cưa trộn than bột! Em nhìn quanh, tìm những dòng họ ký sinh trùng nào đã trưởng thành và sinh sôi nẩy nở trên thân xác của Bố? Những con dòi bọ nào đã đục khoét xác thân tội nghiệp của Bố? Em lâm râm trong miệng như người mộng du:
“Bố ơi! Hôm nay con đi với Mẹ bốc nắm xương mục nát của Bố. Mai kia, khi quân thù bị diệt vong, thế giới an bình, con sẽ đưa Mẹ sang đất Miên, để tìm nắm xương tàn của anh Nghĩa, mà góp nhặt về đây với Bố. Bố ơi! Xứ Chùa Tháp rộng mênh mông, đất lạ quê người, con biết tìm anh Nghĩa ở đâu? Bố có giúp Mẹ và con không hở Bố? Rồi... Rồi Bố ơi! Nếu biển Đông cạn đi, ngày ấy chắc Mẹ già lắm rồi, con sẽ dắt dìu Mẹ theo đoàn người đông như kiến, lần mò đi trong lòng biển đã cạn, để tìm nắm xương của Dung! Trời ơi! Con khóc rồi, Bố ơi! Chắc Bố đã biết rằng chuyến tàu định mệnh của Dung bị hải tặc và chỉ có gần hai mươi người được sống sót sau nhiều ngày lênh đênh đói khát trên biển. Trong số những người này có anh Dũng, Bố ạ! Biển Đông mênh mông và xương trắng chất chồng, cho dù đã cạn, nhưng con biết Dung ở đâu mà tìm? Họa chăng, nếu thấy được chiếc đồng hồ cũ của con dưới lòng biển cạn, mới biết rằng nơi đây Dung của Bố, Dung của Mẹ. Dung của anh Nghĩa và Dung của con đã an giấc ngàn thu. Nhưng chắc gì những cơn sóng cuồng biển Đông đã giữ lại cho. Bố ơi! Một lần nữa, con lại van xin Bố giúp Mẹ và con tìm Dung, Bố nhé!”
Tuy lâm râm, thì thầm trong miệng, nhưng em biết Bố nghe, vì đã có gió đưa lời em đi vào tận cõi trời xa, cõi trời mà ai trong chúng sinh cũng phải một lần lưu lại. Dung! Dung còn ở đấy không? Dung có chờ Mẹ và em không? Em vẫn giữ vững ý định khi gặp Dung, sẽ bắt đền Dung thật nhiều, vì tội Dung đã bỏ em, để một mình đi vào cõi hư vô. Dung không dắt em theo Dung, để em phải chịu đọa đầy với lũ giặc Cộng bạo tàn. Vì sống với chúng, thà chết như Bố, như Dung, như anh Nghĩa còn sung sướng hơn, Dung ạ! Chết mà được đoàn tụ bên nhau, còn hơn sống mà phải phân ly vì những nhu cầu cơm áo tầm thường. Vì ước muốn đoàn viên ấy, nên Mẹ đã gửi hũ tro cốt của Bố tại chùa Vĩnh-Nghiêm ở Saigon, mà không đem theo Mẹ và em trên bước đường lưu lạc sang đất Mỹ. Mẹ và em biết chắc rằng Dung và anh Nghĩa đang quấn quýt bên Bố rồi. Lòng thầm hẹn: sẽ trở về, khi một mai không còn bóng quân thù. Khi ấy, không biết Mẹ có còn không, hay chỉ còn một mình em bơ vơ, trơ trọi? Dung thấy không? Chỉ vì một tháng 4 năm 1975 oan khiên và nghiệt ngã, mà gia đình ta gồm năm người đang quây quần sống với nhau, thân yêu và hạnh phúc biết bao, nay tan nát ra làm nhiều mảnh, âm dương cách trở, để bây giờ còn nơi dương thế này, một thiếu nữ như em, tuy tuổi đời còn rất trẻ, nhưng hận thù giặc Cộng chất chứa còn cao hơn căm hờn của một lão niên bách tuế!
Trên đất Mỹ, vật chất tuyệt đỉnh, văn minh tuyệt vời nhất hoàn vũ, Mẹ và em vẫn lang thang như hai linh hồn vô định trong hai thân xác lưu đầy. Phải nhiều năm sau, Mẹ và em mới lấy lại thăng bằng trong cuộc sống lưu vong. Những đêm dài mộng mị, em vẫn mơ được nằm gối đầu lên mái tóc dài óng ả của Dung. Mơ được Dung chở đi chơi đây đó khi đất nước còn thanh bình. Mơ sống lại quãng thời gian tháng 4 năm 1975, Dung chở em đi nhiều nơi ở Saigon để tìm đường di tản. Dung biết không? Em cứ lẩn thẩn nghĩ rằng nếu ngày ấy chị em mình tìm đúng chỗ để ra đi, thì ngày nay, trên đất tự do này, chị em mình còn có Bố, em còn có anh Nghĩa và nhất là Dung ơi, em còn có Dung, phải không? Chúng ta chỉ lỡ một chuyến đi, mà vĩnh viễn mất nhau. Hay ngày ra đi của Dung mà không gặp hải tặc hãi hùng, thì ngày nay em có thể cùng Dung gạt đau thương mà sống với Mẹ trên xứ người đến hết cuộc đời, phải không Dung? Những ray rứt ấy ám ảnh em mãi, không nguôi ngoai được. Dung thấy đó, sống mà băn khoăn, bứt rứt cũng không sung sướng gì. Ước gì em còn có Dung trên xứ Mỹ này, em sẽ thừa nghị lực để phăng phăng tiến tới, không có gì có thể cản bước tiến của em. Nhưng, Dung ơi! Em đã mất Dung rồi! Em đã mất hết ba phần tư năng lực để sống còn vì thiếu vắng Dung rồi. Dung biết không?
Hằng năm vào tháng 4, cùng với ngày giỗ đất nước suy vong, cũng là ngày giỗ của nhiều người đã nằm xuống trên đất liền, cũng như trong lòng đại dương sâu thẳm, Mẹ và em vẫn có mâm cơm tưởng nhớ đến Dung. Không biết Mẹ và em đã vĩnh viễn mất Dung vào ngày nào, nhưng Mẹ cứ lấy ngày Dung ra đi để cúng giỗ Dung. Dung ơi, có linh thiêng về chứng giám cho lòng em thương nhớ Dung khôn nguôi. Năm nay ba mươi ba năm sau ngày quân giặc cướp nước, và cũng là năm thứ ba mươi ngày Dung bỏ Bố, bỏ Mẹ, bỏ anh Nghĩa và bỏ em ra đi, trải qua bao đau thương chất chồng và hận thù không nguôi, em vẫn hướng vọng về một cõi xa xăm để tưởng nhớ và thương tiếc Dung vô vàn đấy Dung ơi! Ba mươi ba năm rồi, em vẫn chưa quên được cảm giác nóng bỏng khi ngồi sau Dung, xe chạy vòng vòng đến những nhà quen biết trong thành phố Saigon để tìm đường di tản. Chị em mình đã tạt vào một mái hiên nhà để núp cơn mưa tháng 4. Dung đã đưa tay vuốt mái tóc ướt nước mưa của em. Và Dung ơi! Bây giờ em đang thèm bàn tay Dung vuốt mái tóc rối vì cuộc đời của em. Và ba mươi năm rồi, em vẫn thấy như mới hôm qua, Dung đưa tay tháo gỡ cái đồng hồ Seiko cũ của em để đổi lấy cái đồng hồ mới, quà của anh Dũng tặng Dung.
Dung ơi! Cái đồng hồ của Dung vẫn âm thầm và bền bỉ bên em, nhịp nhàng như nhịp tim của em thương nhớ Dung. Mà giờ này, Dung đang lưu lạc nơi nào? Dung có biết em thương nhớ Dung vô cùng không, Dung ơi? Em vẫn nhắc lại điệp khúc ngày xưa rằng: Nếu không có tháng 4 năm 1975 oan nghiệt, thì giờ này em vẫn còn có Dung, có Bố, có anh Nghĩa và là em có tất cả. Phải không Dung?
Chờ em, Dung nhé! Cho dù bao lâu nữa, Dung vẫn cứ chờ em nghe Dung! Dung đã là một phần ba cuộc đời của em, không có gì thay thế được. Dù đã ba mươi năm qua, Dung ạ! Lá thư này đã kết tinh lòng em thương nhớ Dung trong ba mươi năm qua. Em sẽ không thể gửi theo đường bưu điện đến Dung. Lát nữa đây, trong ngọn lửa, theo gió mang đi, thư sẽ tới Dung ở cõi xa xăm mà em chưa tới được. Hẹn gặp nhau, Dung nhé!
Yêu Dung vô cùng! Và thương nhớ Dung vô vàn!
San Jose, ngày 25 tháng 4 năm 2008. |