Thiên Đàng Cộng Sản: Staline ơi, Sao mi đã bỏ rơi chúng tao? |
Tác Giả: Phan Văn Song | ||
Thứ Năm, 30 Tháng 4 Năm 2009 23:03 | ||
Họ là người Mỹ, nhưng họ vẫn mê và tin vào giấc mơ Sô-Viết. Họ bỏ quê hương di cư và cuối cùng đi vào sống ở Goulag.
Xin xem chú thích ảnh cuối bài. Tôi xin giới thiệu cùng quý độc giả, để gởi đến những ai còn « tin », còn « say mê » Thiên Đường Cộng sản... Năm 1931, ( trong sau khủng hoảng kinh tế 1929/30) Amtrog, văn phòng của cơ quan đại diện thương mại Liên bang Sô viết được đặt tại Manhattan New York ra quảng cáo tuyển dụng 6 000 công nhơn di dân làm việc cho Liên Sô. Chỉ trong vòng vài tuần lễ, thiên hạ đỗ xô đi xin việc làm. Trên một trăm ngàn đơn xin việc. Nào là thợ hàn, nào là thợ mộc, nào là tay nấu bếp hạng cừ, nào là tay thợ điện thứ chiến, toàn là những người tử tế, lương thiện ...và một nhóm người Cộng sản thứ thiệt, đam mê, quá khích, bán nhà, bán cữa, bứt đứt giây rễ, hoan hỉ ra đi, đầy tin tưởng. Đi về đất Liên Sô của Staline, đi về miền đất hứa, nơi không còn có giai cấp, nơi không có nạn thất nghiệp, nơi mà các thợ thuyền, công nhơn, đen hay trắng đều lên làm chủ. Chưa bao giờ có một số đông người Mỹ như vậy đã bỏ nước Mỹ ra đi (cũng có vài gia đình Âu châu và đặc biệt vài người Pháp ). Tim Tzouladis, sau một thời gian tham khảo, nghiên cứu, (thơ, và chuyện kể trong gia đình của vài nhơn chứng còn sống sót, văn khố Mỹ ) đã viết cuốn truyện nầy để kể lại cho chúng ta những mẫu chuyện của những di dân nầy. Thoạt mới đầu, thật sự là một thiên đường. Tại thủ đô Mạc Tư Khoa, dân di cư chơi base ball trên những thảm cỏ của công trường Gorki Park, những di dân ôm nhau nhảy vũ trên những điệu nhạc jazz. Và mặt trời cũng lường gạt cả dân di dân, mùa Hè ấy trời ấm áp rất đẹp. Vào năm 1933,, khi nước Mỹ và Liên Sô giao hảo với nhau, thì cũng là thời điểm của bộ máy của chánh sách khủng bố của Staline bắt đầu hoạt động. Nạn đói đang bắt đầu ở Ukraina, các nhà thờ đang bị phá sập, những cuộc bố ráp càng ngày càng tăng dần. Các di dân Mỹ bắt đầu hoảng sợ, họ muốn trở về quê cũ, nhưng đã quá trễ. Staline không để những nhơn chứng như vậy lọt ra ngoài. Khi mới nhập cảng vào Liên Sô, họ đã giao tất cả những thông hành Mỹ (passeport) cho các cơ quan cầm quyền sô viết. « Những kẻ bị bỏ rơi » đểu bị đưa đi « học tập cải tạo » ở những « trại lao động cải tạo » ở Sibêria. Đây là câu chuyện của những kẻ bị bỏ rơi: Đây là chuyện của Thomas Sgovio, sanh viên hội họa. Anh đã sống 30 năm ở Liên Sô, nhưng 25 năm trong tại Lao động cải tạo. Anh là một kẻ sống sót. Khi Joseph, cha anh vừa bị bắt, Thomas Sgovio hoảng hốt. 21 tuổi đầu chàng thanh niên quê ở Buffalo, Tiểu bang New York không biết làm gì hơn là chãy ngay đến nơi anh nghĩ là an toàn nhứt là Tòa Sứ Quán Hoa Kỳ nằm tại đường Moskhovạa. Cùng một lúc tất cả các Sứ quán của tất cả các quốc gia có mặt tại Liên Sô ở Mạc Tư Khoa đều bị tràn ngập bởi các di dân Mỹ xin được tỵ nạn .. rời Liên Sô. . . Mười ngày sau, ngày 21 tháng 3 năm 1938, sau khi anh bạn Marvin (của Thomas Sgovio) bị bắt, anh trở lại Tòa Đại sứ Hoa kỳ ở Mạc Tư Khoa , và , anh rất ngạc nhiên khi nhìn thấy phòng đợi của Tòa Đại sứ hoàn toàn vắng vẽ giữa ban ngày, khác với lần trước, đầy chật những người nhẫn nại sắp hàng chờ đợi phiên mình được tiếp đón. Và anh được trả lời, hãy trở lại tuần sau, hồ sơ của anh đang được cứu xét. Không một ai báo cho anh biết là những đi lại và đơn xin trở về Mỹ là một điều nguy hiểm đến tính mạng anh. Anh rời Toà Đại sứ Hoa kỳ và đi ra về đầy với tấm lòng biết ơn và đầy tin tưởng. Anh ra khỏi Tòa Đại sứ lúc 11 giờ 15 và liền bị Công An Liên Sô NKVD ( tiền thân KGB) bắt nay ở quảng trường Sverdlov, bị đẩy lên một chiếc xe bịt bùng mầu đen và bị chở đến cơ quan Công An Trung Ương đường Loubianka ( Trước đây là trụ sở KGB). Lúc ấy Thomas Sgovio mới 21 tuồi, anh sống ở nước Nga được 2 năm rưởi. Rất khó cắt nghĩa những thái độ của các nhà ngoại giao Mỹ và các quốc gia khác có mặt tại Mạc Tư Khoa lúc bấy giờ. Có thể họ xem các di dân gốc Hoa Kỳ như những con chiên ghẻ đã bỏ xứ sở của mình ra đi. Cũng có thể là Bộ Quốc Phòng và Bộ Nội Vụ Hoa kỳ không muốn rước những « của nợ ấy », thành phần chống đối thiên tả bất hảo, đã không tiếp nhận được một xã hội Mỹ đang thời hậu khủng hoảng kinh tế đầy khó khăn, và trước đó nước Mỹ đã nhìn thấy họ ra đi không luyến tiếc. Đây là một điển hình : Vị Đại sứ Hoa kỳ tại Mạc Tư Khoa Ông Joseph Davies, khi vừa về đến Mỹ ngày 6 tháng 4 1937, với các phóng viên vây quanh phỏng vấn vì đói tin tức của một nước Nga khép kín, đã không ngần ngại tuyên bố, trong khi ấy tình hình khủng bố ở Nga đã được Staline đưa đến một giai đoạn đẩm máu: « Hiện nay, một cuộc thí nghiệm khá ngoạn mục và đầy hứng thú đang xãy ra tại Liên Sô. Đấy là một phòng thí nghiệm khổng lồ, với những nghiên cứu tìm tòi sâu rộng để tạo một ngành hành chánh quản trị đát nước tốt. Liên Sô đang thành công ngoài sức tưởng tượng. Những nhà lãnh tụ chánh trị là một nhóm người nam như nữ đều có bản lãnh, đàng hoàng, chăm chỉ và đầy quyền uy. » (Une expérience merveilleusement stimulante est actuellement menée en Union soviétique. C'est un immense laboratoire dans lequel les recherches les plus approfondies sont faites dans le domaine de l'administration de l' Etat. L' Union soviétique accomplit des choses extraordinaires. Les dirigeants politiques forment un groupe d'hommes et de femmes extrêmement capables, sérieux, travailleurs et puissants). Đến những tay công an kiểm duyệt ở Nga cũng không tìm ra một lỗi nào trong những lời tuyên bố của ông Đại sứ Mỹ. Các báo chí ở Nga đã lặp lại toàn bộ những lời bàn và tuyên bố của ngài Đại sứ Mỹ. Tại New York, Ngài Đại sứ Mỹ Joseph Davies không đá động gì đến số phận các người di dân Mỹ đẵ bị mất tích, thậm chí ông cũng không nói đến những cú điện thoại của những thân nhơn các người bị bắt, ông cũng chẳng thèm cho báo chí hoa Kỳ biết đến chuyện những chuyến xe lữa đầy kiều dân Mỹ mà nhơn viên Sứ quán nhìn thấy trên đường rời Mạc Tư Khoa. Và đặc biệt hơn nữa, Ông cũng không kể cho ai nghe việc bà vợ ông mất ngủ vi những tiếng động ồn ào quanh căn nhà Ông ở khu Spaso. Chỉ có vài năm sau đó, khi ông và bà đã ly hôn với nhau, bà Marjorie Merriweather Post mớui thú nhận là bà đã nghe tiếng máy những chiếc xe bít bùng của Công An NKVD Liên Sô đậu trước những cao ốc chung quanh vườn hoa của biệt thự của ông bà Đại sứ Mỹ. Và hàng đêm, đêm nầy qua đêm khác bà vẫn thường nghe những tiếng kêu cứu hay cầu nguyện của những gia đình Mỹ kiều bị bắt và tiếng khóc sợ hãi của những con trẻ bị bắt đi. Thay lời kết: 16 tháng 4 2009 GHI CHÚ HÌNH: Từ góc trái, hàng trên, theo chiều kim đồng hồ. Ngồi bình an, đây là những ngày Hè vui khi vừa mới đến, trước những ngày Đông của Goulag. |