Tình Người Trong Cơn Ly Loạn |
Tác Giả: Mường Giang |
Thứ Năm, 08 Tháng 4 Năm 2010 18:45 |
Những ngày cuối tháng 4-1975, Phước Tuy bổng dưng trở nên nhộn nhịp khác thường. Thuở thanh bình, tỉnh này với hai trung tâm nghĩ mát và tắm biển nổi tiếng Long Hải, Vũng Tàu vẫn luôn có sự hiện diện của người Sài Gòn. Sở dĩ có tình trạng biến đổi này vì tin đồn các chiến hạm của Ðệ Thất Hạm Ðộ Mỹ sẽ cặp sát bờ để hốt người, nên thiên hạ bốn phương rĩ tai bảo nhau, ùn ùn kéo về đây để may ra có cơ hội “ vàng ròng “ trốn thoát được thiên đàng cộng sản sắp trở thành hiện thực. Lúc đó trên khắp các nẽo đường đổ về quốc lộ 15, từ Long Thành tới Bà Rịa để đi Long Ðiền, Long Hải hay xuôi về Vũng Tàu.. đâu đâu cũng đầy nhóc xe cộ và người. Lính kéo về đây để làm dầy thêm vòng đai bảo vệ an ninh cho thủ đô. Còn dân theo bước lính để nhờ đùm bọc trong thời gian ngắn ngũi đợi chờ định mệnh. Ai cũng như ai từ dân tới lính ‘ nản phiền, héo hắt và tuyệt vọng ‘. Ngày 20/4/1975 QLVNCH được lệnh rút khỏi Long Khánh, vì vị trí này đã không còn giá trị chiến lược khi cộng sản Bắc Việt đã mở một hành lang máu từ Túc Trưng, Gia Kiệm chọc thẳng vào Biên Hòa, không qua bức tường thép của Lực Lượng III Xung Kích tại Ngã Ba Dầu Giây, Hưng Long.. do tướng Trần Quang Khôi chỉ huy.Trong lúc đó Phan Thiết đã di tản ngày 19/4/1975 kế tiếp là Hoài Ðức, Tánh Linh và Hàm Tân cũng thất thủ vào những ngày sau đó. Phước Tuy trở thành địa đầu giới tuyến, dân chúng các vùng chiến nạn miền Trung, Phan Thiết, Bình Tuy.. dùng ghe thuyền chạy về đây lánh họa. Còn đồng bào Xuân Lộc, Tân Phong, Cù My, Phước Hải, Ðất Ðỏ, Ðức Thạnh, Xuyên Mộc.. cũng theo chân SD18BB chạy về Long Ðiền. Riêng các gia đình cạo mũ cao su ở đồn điền Ông Quế và An Viễn, sau cái vụ cộng sản Bắc Việt tàn sát dã man đồng bào còn kêt lại Long Khánh, đã bất chấp bom đạn, ùn ùn chạy theo Tiểu Ðoàn 2/Trung Ðoàn 43/Sư Ðoàn 18 BB của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế, là đơn vị cuối cùng của QLVNCH tại mặt trận Long Khánh, về Long Thành. Ngày 20/4/1975 những đơn vị còn lại của Tiểu Khu Bình Thuận gồm Tiểu Ðoàn 274 ÐP của Thiếu Tá Trịnh Văn Bình, TÐ275 ÐP của Thiếu Tá Nguyễn Tư, TÐ 202 ÐP của Ðại Uý Huỳnh Văn Hoàng, TÐ 229 ÐP của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Tiến, TÐ 249 ÐP của Ðại Uý Huỳnh Văn Quý, Ðại Ðội 948 ÐP của Ðại Uý Mai Xuân Cúc, Ðại Ðội 4/248 ÐP của Trung Uý Nguyễn Tấn Hợi.. và một số đơn vị thuộc TÐ 212 ÐP.. sau những này tử chiến với cộng sản Bắc Việt tại Lương Sơn, Ma Lâm, Tân Ðiền, Phú Long, Phan Thiết .. được các chiến hạm và tàu thuyền của Duyên Ðoàn 28 thuộc Bộ Tư Lệnh Vùng II Duyên Hải, vớt về Vũng Tàu với tổng số quân nhân các cấp hơn 3000 người. Ðại Tá Ngô Tấn Nghĩa cũng có mặt trong đoàn quân di tản này. Tất cả được chuyển về Trung Tân Huấn Luyện QG Vạn Kiếp tại Bà Rịa, tái trang bị vũ khí, quân trang dụng để thành lập Trung Ðoàn Bình Thuận. Sau đó đơn vị được phối trí bảo vệ thành phố Vũng Tàu, tại căn cứ cũ của TQLC , chiến đấu cho tới lúc được lệnh đầu hàng của TT Dương Văn Minh, lúc trưa 30/4/1975 mới tan hàng. Tại Long Hải và Phước Tĩnh, dân tị nạn VC tấn chiếm hết các cơ sơ công cộng từ trường học, chùa, nhà thờ. Những người tới sau thì cắm lều dọc theo bãi biển, dưới rặng thuỳ dương chạy dài ngun ngút từ ngã ba Long Ðiền tới Miếu Bà. Hàng quán, chợ nhỏ và bến xe được dựng lên vội vã, giúp mọi người ráng thoi thóp thở từng hơi tuyệt vọng, trong lúc bóng dáng của lũ hung thần ác quỷ đỏ còn khuất sau núi Thị Vải. Nhưng hầu hết nạn nhân chiến cuộc lúc đó đều tập trung tại Vũng Tàu. Rừng người khốn khổ vì cộng sản từ miền Trung, cao nguyên, Phan Thiết, Bình Tuy, Long Khánh.. như có mặt khắp các ngõ ngách trong thị xã nhỏ bé này. Gần như biến mất các bóng hồng phu nhân mệnh phụ, tiểu thư đài các.. trước đó thường nằm bất động trên bãi cát trắng phau.. để khoe da thịt. Cũng không còn nghe được những tiếng cười nức nẽ của các ả ăn sương, trong các bar bum nhạc nhụa thời Mỹ còn làm trùm, làm ứa gan thiên hạ nhất là lính tráng và dân nghèo. Tất cả đã biến mất một cách thần kỳ, chỉ còn thấy khắp các nẽo đường Vũng Tàu từ Rạch Dừa ra các bến tàu, bãi biển.. hàng hàng xe cộ đủ loại của chính quyền và quân đội, chực đón đồng bào chiến nạn cũng như các đơn vị miền Trung di tản về. Riêng dân chúng được đưa tới tạm trú tại Trung Tâm Tiếp Cư Lê Lợi và Chí Linh, cũng là TTHL Cảnh Sát Dã Chiến và Cán Bộ Phát Triển Nông Thôn. Làm sao có thể quên được trong cuộc đời những hình ảnh đẹp, của các vị Ni-Sư mãnh mai ốm yếu, đầu trần chân đất, lễ mễ khiên từng thùng nước đã nấu chín và hàng son cháo loảng, để tiếp sức cho các nạn nhân, nhất là các cụ già và trẻ con, gần như nằm bất động giữa các khoang thuyền đông nghịt người, qua nhiều ngày chịu sóng gió trên biển. Lúc bình thường thì ly nước hay chén cháo loảng có nghĩa gì đâu ? nhưng trong giờ phút ‘ cây cột đèn cũng muốn chạy ‘ thì những thứ đó lại trở nên trân quý, khác gì những giọt nước Cam Lồ của Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát hằng cứu khổ cứu nạn thế nhân. Nhiều giọt lệ đã tuôn ra từ khoé mắt của các nạn nhân khốn khổ, thắm vào da thịt của kẻ tu hành, trở thành thứ tình cảm thiêng liêng, miên viễn và tuyệt diệu. Tiếp theo đó là những bàn tay nâng đỡ của các anh chị Cán Bộ PTNT, giúp những người ốm yếu bệnh hoạn cũng như đồ đạc hành lý, từ thuyền lên xe về các trung tâm tạm trú. Hơn 10.000 nạn nhân chạy giặc VC, chen chúc sống trong 20 trại của Trung Tâm Chí Linh. Tất cả phòng ốc huấn luyện, nhà xe, kho chứa.. cho tới các bãi tác xạ đều dành cho người tị nạn. Vì số lượng người lánh nạn càng lúc càng đông, nên những người tới sau được cấp lều vãi cá nhân để ở tạm. Sự cứu trợ đước áp dụng theo tiêu chuẩn ‘ nạn nhân chiến cuộc ‘ của Bộ Xã Hội, gồm có tiền, gạo và thực phẩm. Nước tắm rữa, giặt quần áo có ngay trong trại, còn nước uống được tiếp tế hằng ngày. Nhiều mạnh thường quân và các cơ sở từ thiện, tôn giáo .. giúp trung tâm quần áo, thực phẩm tươi, đồ hộp, mì gói. Một số Ni-Sư nguyên thiền sinh của Thiền Viện Chân Không Phước Tuy tới đây làm công tác từ thiện : Ni cô đãm trách việc phát thuốc, chữa bệnh và đở đẽ. Riêng các sư lãnh phần chặt cây, dựng lều cho đồng bào. Các thầy còn đi rão khắp trại, lùng kiếm các cô cậu để hớt tóc, vì có nhiều em hai ba tháng bôn ba chạy theo cha mẹ lánh nạn, không có dịp làm gọn cái đầu. Mọi gia đình như tạm thời xếp nổi lo âu cùng cực để chờ phép lạ do chim bồ câu hòa bình sẽ mang tới. Tuy nhiên ai cũng cãm thấy như được an ủi phần nào, trong vòng tay đùm bọc thân ái của tình người giữa cơn ly loạn. Riêng các nạn nhân chạy về Sài Gòn, nếu không có thân nhân đùm bọc hay cơ quan gốc bảo trợ, đã phải sống lây lất dưới mái hiên người, sống đầy lề đường Phan Ðình Phùng, Petrus Ký, bến xe An Ðông tại ngã bảy. Tình hình Phước Tuy lúc đó tạm thời lắng dịu, nhờ đã giải quyết được vấn đề người tị nạn nhưng chỉ tới ngày 26/4 thì giặc bắt đầu tấn công căn cứ Nước Trong và đã bị các sinh viên sĩ quan Ðà Lạt, Chiến Tranh Chính Trị, Thủ Ðức, Thiết Giáp và TQLC chặn đứng trong ba ngày tại đây. Quốc lộ 15 nối liền Sài Gòn-Vũng Tàu cũng như thủy lộ Sài Gòn-Ðồng Nai-Cần Giờ vẫn còn thông suốt, nhờ vậy mới giúp được một số lớn đồng bào thoát ra nước ngoài bằng tàu thuyền. Ngày 29/4/1975 nhiều quận thuộc Phước Tuy thất thủ nhưng Vũng Tàu vẫn còn tuy vòng vây của giặc đã áp sát và hướng tất cả các nòng đại pháo vào khu dân cư để nhả đạn, bất chấp sinh mệnh của hằng ngàn đồng bào vô tội. Chết chóc, đau thương.. tiếng khóc than thấu tới trời xanh. Phút cuối cùng mới thấy được tình người, tình đồng đội và sự hy sinh cao quý của người lính VNCH. Thật vậy, đối với Việt cộng, kẻ thù chính của chúng trước sau không phải là những đơn vị Dù, TQLC, Lọi Hổ, BÐQ.. mà là nhũng người lính Nghĩa Quân và Cán Bộ Bình Ðịnh Phát Triển Xây Dựng Nông Thôn.. những người lính thật sự đối mặt và đối diện đêm ngày với kẻ thù nơi trận địa không có ranh giới tử sinh. Và những người chiến sĩ áo đen hiểu rõ điều ấy hơn ai hết, khi đám VC thuộc tỉnh đội Phước Tuy theo chân quân Bắc Việt tràn ngập Vũng Tàu, vào trung tâm tiếp cư Chi Linh. Chỉ có chết hay nhân lãnh đòn thù ? Họ biết rõ nhưng đã không bắt chước các cấp chỉ huy bỏ chạy, để kịp giờ leo lên máy bay hay tàu thuyền đông ra biển. Hầu hết đã chấp nhận ở lại sống chết với trung tâm, giúp những người tị nạn bị thương vong vì đạn pháo kích, đang quằn quại trong vũng máu bằng các phương tiện ít ỏi trong giờ phút 25 tàn cuộc. Ðồng hành chấp nhận sự hiểm nguy với những người lính áo đen, còn có những vị su-sãi trẻ tuổi cũng ở lại để san sẽ nổi khổ đau chung cùng nhân thế. Ba mươi lăm năm qua rồi, thời gian cũng đủ làm cho lớp sơn mặt người cộng sản VN trôi hết, bày rõ chân tướng ‘ đánh miền Nam để dành độc quyền làm tay sai nô lệ cho Tàu đỏ ‘.Ngắn gọn và lý tưởng chỉ thế thôi, chấm hết quá khứ của một cuộc chiến bi thảm tận tuyệt, lảng nhách và vô duyên nhất trong dòng sử Việt. Ngày 19 tháng 4 năm 1975, người lính già theo chân đoàn quân di tản Bình Thuận chạy vào Vũng Tàu. Sau đó đã đi khắp mọi nơi để tìm vợ và 4 đứa con nhỏ đã đi trước. Cuối cùng ngày 21 tháng 4 mới gặp được họ đang an bình trong Trung Tâm Tiếp Cư Chí Linh. Nhờ đó mới được nghe thấy tại chỗ những điều vừa ghi lại theo niềm nhớ khôn nguôi trong tâm khảm suốt hai phần ba cuộc đời. |