Home Văn Học Tùy Bút Hồi Ký Vượt Biên : Chuyến Vượt Biên

Hồi Ký Vượt Biên : Chuyến Vượt Biên PDF Print E-mail
Tác Giả: Vĩnh Khanh   
Chúa Nhật, 07 Tháng 8 Năm 2011 23:21

Suốt đời tôi sẽ nhớ mãi hình ảnh đêm hôm đó ; hình ảnh của chính tôi ; một gã bất đắc chí, thất cơ lỡ vận ngồi gậm nhấm nỗi buồn một mình bên xị rượu thuốc rẻ tiền trong một quán nhỏ ven đường ở ngã ba Trung Lương. Đêm đó là đêm mồng 7 Tết năm Tân Dậu 1981.


Chuyến Vượt Biên Thứ Nhất

Giữa năm 1980, gia đình tôi từ rẩy đã bỏ về Sài Gòn ở, tuy cũng rất vất vả, nhưng chuyện sinh kế có phần dễ thở hơn trước. Trước đó không lâu, có người bà con giúp cho em trai tôi đang ở vào tuổi nghĩa vụ đi vượt biên, và chuyến đi đó đến được Mã Lai thành công. Mấy tháng sau, lại có một gia đình ở miền Tây đang tổ chức vượt biên, trước đây chịu ơn của gia đình tôi rất nhiều, thấy tình cảnh của gia đình tôi khó khăn nên thật lòng giúp đỡ lại. Họ dành một chổ cho tôi và đứa con trai đi không lấy tiền. Con gái của tôi lúc đó chưa tròn một tuổi, tôi thật không đành lòng bỏ vợ và con gái ở lại, nhưng mọi người kể cả vợ tôi cũng khuyến khích và đồng ý để hai cha con chúng tôi ra đi.

Khoảng tháng 10/1980, một người dẫn đường hướng dẫn cha con chúng tôi xuống ếm tại Kinh 5, gần Rạch Giá. Chúng tôi hẹn nhau tại Xa Cảng Miền Tây lúc 5 giờ sáng ngày hôm đó, rồi cùng nhau đón xe đi Rạch Giá, độ 6 giờ chiều thì tới kinh 5. Dân địa phương ở đây hầu hết là người miền Bắc di cư vào Nam năm 1954, được chính phủ Ngô Đình Diệm đưa về đây lập nghiệp, vùng này ngày xưa còn hoang vắng lắm, sau đó dưới sự hổ trợ của chính phủ đã được khai phá dần, những người dân miền Bắc định cư dọc theo những con kinh đào với mục đích dẫn thuỷ nhập điền. Từ đó kinh 1, kinh 2, 3, 4, 5 ... cho đến kinh 11 đã trở thành những cột móc địa lý quen thuộc của người dân ở đây. Đi xe đò mà bảo tài xế, hoặc lơ xe cho xuống kinh 5, 6 ... thì họ ngừng ngay tại chổ mình muốn liền.

Xuống xe chúng tôi được một người khác chờ từ trước, đưa xuồng đi dọc theo con kinh thật lớn thêm khoảng hơn tiếng đồng hồ nữa mới tới chổ ếm chờ ngày đi, đến nơi thì trời tối mịt rồi ... Chúng tôi được đưa vào nhà của hai vợ chồng còn rất trẻ, độ khoảng 20 tuổi là cùng. Sau khi giới thiệu lẩn nhau, được biết người chồng tên B sẽ đi cùng chuyến sắp tới với chúng tôi. Hai vợ chồng này rất nhiệt tình và hiếu khách, đã dành cho cha con tôi một chổ tạm trú tươm tất. Hai ngày tạm trú tại đây, mặc dù không đi đâu được và rất lo lắng, nhưng nhờ sự tử tế của gia đình trẻ này, hai cha con chúng tôi cũng thấy bớt căng thẳng.

Hai ngày sau, chưa tới 4 giờ sáng, B và cha con tôi đã được sắp xếp từ trước đi trên một chiếc xuồng ba lá nhỏ. Tôi ngồi phía trước chèo mũi, B ở phái sau chèo lái, con trai tôi ở chính giữa. Thật sự thì tôi có biết chèo xuồng hồi nào đâu, lúc còn học sinh có đôi lần đi cắm trại, cũng có dịp ngồi lên xuồng chèo chơi, nhưng đó là chuyện đi chơi, chiếc xuồng đôi lúc quay vòng vòng cũng không sao ... còn bây giờ là lúc phải chèo thật. Nói thì nói vậy, chứ tôi ngồi phía trước là để nguỵ trang thôi, lâu lâu cũng quơ quơ phụ mấy cái cho ra vẻ một chút, chứ ngoài ra anh chàng B « thầu » hết.

Đúng là ở đâu thì quen đó. B chèo gần như một mình từ kinh 5 đi len lỏi theo các sông rạch chằng chịt - chứ không dám đi theo con sông lớn - từ sáng sớm như vậy cho đến chạng vạng tối thì gần đến cửa biển mà không thấy anh ta than mệt một lần nào, trong khi đôi cánh tay tôi như muốn rã ra hết.

Chúng tôi tấp vào một vùng dừa nước rộng, núp sau các tàng lá ô rô lớn nghỉ ngơi và ăn uống chờ trời tối hẳn mới dám đi tiếp. Đoạn đường từ đây đi ra cửa biển là đoạn mà chúng tôi lo lắng nhất. Có bị bắt dọc đường từ sáng đến giờ thì còn có lý do để chống chế, chứ từ chổ này đi ra cửa biển mà bị bắt thì hết chối cải. Bao nhiêu giấy tờ giả như cán bộ, công nhân viên chức đi công tác, đi phép ... từ đoạn này trở đi, khi bị bắt thì giấy tờ thiệt cũng trở thành giấy tờ giả cả,vì đi đâu mà ra cửa biển giờ này, ngoại trừ đi vượt biên thôi ... Chúng tôi yên lặng chèo, cố lợi dụng bóng tối và các khoảng có ô rô, dừa nước để tránh tầm quan sát của công an biên phòng, lòng thật hồi hợp, căng thẳng. Tôi phải dặn con tôi từ trước là không được lên tiếng hỏi han, không được ho, ngay cả muỗi cắn thì ráng xua tay đuổi chứ đừng lên tiếng. Xuồng cứ thế hướng ra điểm hẹn ngoài cửa biển. Gió lúc này đã có pha hương vị mặn và mát lạnh của biển lúc ban đêm rồi.

Chúng tôi đến điểm hẹn an toàn. Không nhận thức được lúc đó khoảng mấy giờ nữa, trời tối đen như mực, chúng tôi tắp xuồng vào một khoảnh rừng tràm nhỏ đầy bùn trên một doi đất nhô ra biển mà B đã biết từ trước. Đây là điểm dừng chân chờ « con cá lớn » của chúng tôi. Lúc còn chèo xuồng, muỗi đã nhiều rồi, nhưng khi tắp vào chổ này, muỗi còn nhiều gấp bội nữa. Cứ giơ tay ra rồi nắm lại thật nhanh, ít nhất cũng bắt được một vài con muỗi trong lòng bàn tay, ngay sát biển mà tiếng muỗi bay vo ve nghe rõ mồn một. Cũng may B đã lo liệu từ trước nên có mua sẵn thuốc thoa chống muỗi, nhờ vậy nên cũng đỡ. Tôi ôm con trai tôi vào lòng, phủ kín mít lên người nó thêm một bộ đồ của tôi mang theo, vậy mà thỉnh thoảng nó vẫn xuýt xoa khe khẻ vì bị muỗi cắn. Chúng tôi ngồi trên xuồng mà hai tay hoạt động lia lịa để đuổi muỗi.

Đến thật khuya « con cá lớn » từ từ lộ dạng. Từ trong bãi núp, chúng tôi có thể thấy bóng của nó lù lù trên nền trời đen. B đập đập nhẹ trên xuồng ra hiệu cho tôi. Chúng tôi yên lặng chờ cho đến khi thấy một ánh đèn nhỏ chớp lên 3 lần báo hiệu bãi đáp an toàn. B và tôi hối hả chống xuồng ra khỏi rừng tràm đầy muỗi đó, bao nhiêu sức lực đổ dồn vào tay chèo hướng về phía « cá lớn ». Cũng ngay trong lúc đó, từ các khu rừng tràm nhỏ gần bên, khoảng mấy chục chiếc ghe, xuồng đến núp từ hồi nào trong đó cũng túa ra như đàn ong, tranh nhau cặp vào « cá lớn » ... Tài công và mấy người trên « cá lớn » hình như đã tiên liệu được tình trạng lộn xộn có thể xảy ra, cho nên ở hai bên hông « cá lớn » đã có người đứng cầm sẵn mấy cây tre thật dài ngăn không cho các xuồng nhỏ tấp vào sát, mỗi bên họ chỉ chừa một lối vào duy nhất cho một chiếc ghe hoặc xuồng được cặp vào mà thôi, sau khi kéo người trên xuồng nhỏ lên « cá lớn » xong, họ giở cao thanh tre lên và đạp chiếc xuồng đó ra, để chiếc kế tiếp vào ... cứ thế cho đến chiếc cuối cùng, mọi người được kéo lên xuồng trong vòng tương đối trật tự theo phương pháp này và sự việc chỉ xảy ra trong vòng 15 phút là xong. Trên cửa biển lúc bấy giờ trôi lềnh bềnh những chiếc xuồng không người bị đạp ra lúc nảy, trông thê thảm như một bãi chiến trường.

Sau đó « con cá lớn » nổ máy hết ga hướng ra biển, mấy người địa phương rành đường nằm ngay trước mũi « cá lớn » cầm đèn pin rọi phía trước, lâu lâu la lớn lên :
- Coi chừng vướng đáy ở đằng trước, coi chừng vướng đáy ở đằng trước ...

Mọi người la chuyền câu đó ra phía sau để báo cho tài công tránh các đáy cá của ngư dân đóng ở những bãi cát bồi, chờ nước lớn lên bắt cá kẹt lại trong đáy ...

Hoặc thỉnh thoảng mọi người lại chuyền nhau la lên :
- Bẻ qua trái, bẻ qua trái ... có bãi cát bồi đàng trước.

Ai nấy đều phấn khởi ra mặt, la hét rùm trời mặc cho gió lạnh ào ào thổi. Chúng tôi đã ra giữa biển rồi. Gió mát lạnh hoà lẩn mấy giọt nước biển văng lên bắn tung toé vào mặt làm tôi tỉnh hẳn. Bao nhiêu lo âu, căng thẳng cả ngày bây giờ hình như đã được trút bỏ hết. Tôi ôm con trai vào lòng, hoà chung niềm vui với mọi người mà lòng không khỏi chạnh nghĩ về gia đình. Như vậy bây giờ chúng tôi đã thật sự xa gia đình rồi sao ? ?

Chúng tôi bắt đầu ổn định lại vị trí cho mọi người. Đa số đàn bà và trẻ em đã được sắp xếp xuống dưới khoang hầm ngay sau khi được kéo lên « cá lớn »trước rồi. Tôi bế con tôi bước xuống mấy bực thang gổ ngay miệng hầm. Một ngọn đèn bão treo lủng lẳng giữa khoang toã ra những vệt sáng vàng vọt tù mù, nhưng cũng đủ để thấy được khắp cả khoang. Ở dưới hầm đông nghẹt người nằm, ngồi chen chúc nhau, tuy chật chội nhưng ai nấy đều vui vẽ lắm, tiếng dổ con nít và tiếng người thân gọi hỏi thăm nhau ơi ới, ồn ào khắp cả khoang. Vì xuống dưới hầm sau, nên cha con tôi ở ngay vị trí gần dàng máy, trên đầu là cửa lên xuống. Tuy có hơi ồn vì gần ngay khoang máy, nhưng được cái thoáng mát và không bị ngộp. B cũng xuống hầm một lượt với tôi, anh ta nằm cạnh tôi, ngay sát dàng máy nên được giao nhiệm vụ phụ máy, châm nước giải nhiệt vào máy từ các « can » nylon 30 lít khi cần thiết. Phía trên khoang có ai đó chuyền xuống mấy cái thau nhựa để rải rác dưới khoang hầm cho những ai bị say sóng ói mửa, hoặc tiểu tiện ... thì có thể xử dụng ngay vào đó. Trật tự ổn định dần và mọi người sau một ngày mệt mỏi cũng bắt đầu ngủ. Nhìn thấy con trai tôi đã ngủ say, tôi cũng thấy an tâm. Lúc này thì tôi thấy mệt mỏi thật sự, nằm lim dim nghe tiếng máy nổ đều đều và tiếng người nói loáng thoáng phía trên, tôi rơi vào giấc ngủ hồi nào không hay.

Khi giật mình tỉnh dậy, con tôi vẫn còn ngủ say, nghe tiếng dỗ và tiếng con nít khóc đâu đó ở phía trong. Tôi không ngủ lại được nữa, cánh tay tê cứng vì ôm đứa con trong một tư thế quá lâu. Tôi rón rén đặt nó nằm xuống sát bên B, anh chàng này cũng đang ngủ say sưa, thằng bé trở mình ú ớ gì đó nghe không rõ rồi ngủ lại, nhìn nét mặt của nó thật dễ thương. Tôi leo lên trên khoang thuyền nhìn ra phía trước. Trời đã mờ mờ sáng trên biển, gió lạnh đập vào mặt ào ào làm tôi tỉnh hẳn. Tôi đi ra phía sau cabin nói chuyện với tài công và mấy người nữa đang đứng hút thuốc, thấy tôi đi tới, họ mời tôi hút thuốc rồi cười hỏi :
- Bộ nhớ nhà không ngủ được hả ? ?

Tôi cười cười không trả lời và thật ngạc nhiên khi một người nhìn đồng hồ rồi cho tôi biết chỉ mới có hơn 4 giờ sáng thôi mà trời đã sáng, thấy rất rõ trên biển. Anh chàng tài công tên H. là người địa phương, gia đình sống bằng nghề đánh cá trên biển ngay từ khi anh chưa ra đời và cứ thế truyền tới anh cũng lập nghiệp bằng nghề này. Anh H. cho tôi biết trên biển trời sáng sớm lắm. Lúc mọi vật sáng tỏ hẳn, tôi có dịp quan sát kỷ thì ra con « cá lớn » chỉ là một chiếc ghe đánh cá dài độ 16 thước, ngang độ 3 thước. Trong giới vượt biên lúc bấy giờ, một con « cá lớn » như vậy là ngon lắm rồi. Nhiều chuyến tổ chức khác ghe còn nhỏ hơn nhiều. Chuyến đi này, gần như toàn bộ đám tổ chức vượt biên rút hết, mang theo gia đình đi cùng, hơn phân nữa hành khách là dòng họ bà con của mấy tay tổ chức, cho nên được chuẫn bị khá chu đáo. Tổng cộng số người trên ghe kể cả trẻ em là 106 người. Họ đem theo khoảng 3 thùng phuy nước, chưa kể mấy « can » nhựa 30 lít nước giải nhiệt có thể dùng để uống khi cần thiết ... thực phẩm rất đầy đủ gồm bánh tét, bánh ú, củ sắn, cơm vắt, chả lụa ... ngoài ra mấy người địa phương còn thủ sẳn một nồi cơm và một nồi thịt kho bự tổ chảng, ngay cả hơn một chục cây thuốc lá thơm Sa Mít của Thái Lan và 3 kí lô cà phê cũng được dự trù ... máy chính thì là máy 2 blocks đầu bạc và một máy F10 « sơ cua », nhiên liệu cũng được tính toán mang đủ cho cả những tình huống xấu ... cho nên phải nói là trong vấn đề tổ chức lần này, không gì có thể chê trách được.

Anh T, người đứng đầu trong nhóm tổ chức cho chúng tôi biết, anh và các anh em khác đã chi ra hơn 20 cây vàng, chỉ để lo lót cho đám công an biên phòng và công an địa phương, bằng nhiều ngã khác nhau vận chuyển số nhiên liệu và thực phẩm « khổng lồ » đó đến nơi an toàn, đợi đến giờ G thì bốc lên ghe. Khi nghe Anh T cho biết như vậy, tôi thấy rất yên lòng và cảm thấy mình may mắn đi trong một chuyến được tổ chức kỷ càng như vậy.

Chính gia đình Anh T này là người trước đây chịu ơn gia đình chúng tôi, Má của anh và rất nhiều bà con dòng họ anh đã được cô em tôi chữa hết bệnh mà gia đình tôi không lấy một khoảng thù lao nào. Cho nên khi Má của anh biết gia đình tôi khó khăn, chính bà đã dẫn Anh T lên Sài Gòn đến gặp và giới thiệu anh với Má tôi. Trước mặt chúng tôi, bà này đã nói với Anh T là anh phải cố gắng giúp cho chúng tôi, vì nhờ gia đình tôi mà bà và nhiều bà con còn sống đến ngày hôm nay ... Anh T có hứa bằng mọi cách sẽ lo cho chúng tôi, đồng thời khi anh biết tôi « đọc được đồng hồ và xài được giấy, thước kẻ ... » (tiếng lóng của dân vượt biên nói về việc sử dụng được hải bàn, hải đồ và thước đo toạ độ), thì anh thích lắm vì anh cần một người như vậy, chứ còn mấy tài công đánh cá thì đánh cá ven biển theo kinh nghiệm, chứ không biết sử dụng những đồ nghề đi biển này.

Trước đây, khi còn trong quân trường, tôi có được huấn luyện căn bản về chuyện này, mặc dù không chuyên môn về hải hành, nhưng những căn bản sử dụng hải bàn và la bàn thì như nhau thôi. Vả lại sau khi nghiên cứu trên hải đồ cho lộ trình sắp tới, tôi đã vẽ một hải trình 220 độ từ điểm xuất phát đi qua Mã Lai theo hướng Tây Nam ... Khi Anh T nghe tôi giải thích những tình huống bẻ góc để tránh chướng ngại phía trước, sau đó tính toán để đi lại hướng củ, anh có vẻ tin tưởng tôi lắm. Anh bàn với tôi để tài công lái từ cửa biển đi ra, sau đó tôi sẽ hướng dẫn tài công đi theo đúng như lộ trình tôi đã vẽ ... Từ đó chúng tôi liên lạc nhau thường xuyên mỗi khi Anh T lên Sài Gòn bốc thêm khách ... cho đến ngày đi.

Ghe chúng tôi đi đến trưa không có gì quan trọng xảy ra, ngoài một vài lần thấy xuất hiện trước mặt một chấm đen của một tàu hoặc thuyền nào đó đang di chuyển, thì chúng tôi bẻ góc về phía trái hoặc phải ... đối nghịch lại hướng của chiếc trước mặt, sau đó đợi khi nó khuất dạng thì tôi nói tài công bẻ góc ô vuông, tính thời gian từ lúc bắt đầu bẻ góc lần đầu tiên đi, sau đó trở lại hướng củ trực chỉ về hướng Mã Lai.

Trời xanh trong, sóng lúc này khoảng cấp 2, 3 tương đối yên, dưới khoang mọi người tuy vật vả vì mệt và say sóng, có vài người ói mửa, nhưng chưa thấy ai than phiền gì cả ... Chúng tôi bày ra ăn uống, tôi mang một ít cơm xuống hầm cho con tôi. Thằng bé có vẻ mệt mỏi, khóc rấm rức và không muốn ăn, tôi ép nó ráng ăn mấy muỗng cơm và cho nó ngậm một viên kẹo Vitamin C mà chúng tôi mang theo, sau đó tôi nhờ B coi chừng nó dùm rồi lên phía trên ngồi với tài công H và Anh T Khoảng 2 giờ sau thì bên tay trái chúng tôi xuất hiện xa xa một hòn đảo mà tài công H cho biết đó là Hòn Sơn Rái.

Chúng tôi tiếp tục đi đến khoảng gần 4 giờ chiều thì gặp một chấm nhỏ xuất hiện bên tay phải, chúng tôi bẻ góc tránh nhưng bị rượt theo, sau vài lần bẻ góc như thế mà vẩn bị rượt theo, chúng tôi biết là nguy rồi. Không biết tàu đó là ai, nhưng chắc không phải hải tặc Thái Lan, vì chúng tôi còn ở sâu trong hải phận VN, hải phận quốc tế còn xa lắm ... Mọi người nhốn nháo hẳn lên, anh T chuyền xuống hầm tàu cho biết nếu ai có vàng bạc gì thì hảy tìm cách dấu đi ... Nhiều người trong khoang hầm đã bắt đầu đọc kinh cầu nguyện. Con trai tôi cũng sợ quá mếu máo khóc, tôi ẳm nó lên phía trên với tôi và dỗ dành nó, lòng lo lắng vô cùng. Chiếc tàu đó đuổi theo càng lúc càng gần, ban đầu chúng tôi nghĩ rằng đó là tàu tuần của công an biên phòng, nhưng đến khi đến gần thì chúng tôi nhận ra đó là tàu đánh cá Kiên Giang 2 qua cái tên được vẽ thật lớn ở hai bên mũi. Chiếc tàu đánh cá này rất lớn so với thuyền của chúng tôi, ít nhất là lớn hơn gấp 5, 6 lần và có trang bị súng đại liên M60 ngay trước mũi, một tên đang đứng sau khẩu đại liên, tay lăm lăm trong tư thế sẵn sàng . Chúng tôi chưa biết phản ứng ra sao thì một loạt súng đại liên nổ chát chúa lướt qua đầu làm mọi người hoảng hồn nằm sát xuống boong thuyền, một tên bên tàu này cầm loa nói to :
- Ai nấy nằm im úp mặt xuống sàn, hai tay ngược ra đàng sau, ai ngước mặt lên hoặc rục rịch tao bắn chết mẹ hết. ĐM tụi bây dám đi vượt biên hả.

Hắn lập đi lập lại lệnh này và chưởi thề lung tung, sau đó lại thêm mấy tràn súng thị uy nữa vèo vèo trên đầu chúng tôi. Rồi tiếng loa vang lên :
- Tụi tao cho người qua đây, đứa nào nhúc nhích tao bắn bỏ liền.

Tôi kéo thằng con tôi nằm xít lại gần, an ủi nó :
- Không sao đâu con, đừng sợ. Con đừng khóc nghe, đừng khóc thì họ không làm gì con đâu.

Tội nghiệp nó sợ quá, nhưng không dám khóc lớn, chỉ thút thít :
- Mẹ ơi, Mẹ ơi ... con sợ quá. Ba dẫn con đi làm chi, con muốn ở nhà với Mẹ mà Ba dẫn con đi làm chi vậy.

Nó cứ nói như vậy và khóc thút thít hoài. Trong lòng tôi, một niềm đau xót khôn tả, mỗi lời của con thơ như dao đâm vào lòng tôi. Thấy thương nó và tự nhiên ân hận vô cùng. Lúc đó tàu Kiên Giang 2 đã cặp sát vào ghe chúng tôi. Hai tên bên đó nhảy qua, chúng mang theo một bó dây nylon, ra lệnh tất cả đàn ông thanh niên ở dưới hầm lên hết bên trên. Con trai tôi vì đã ở trên sẵn rồi nên chúng để yên cho nó ngồi cạnh tôi, còn bao nhiêu đàn bà con nít khác thì ở dưới hầm không dược lên. Chúng lần lượt trói thúc ké chúng tôi lại, sau đó cho chúng tôi ngồi dậy. Cũng may chúng không trói con trai tôi. Con tôi thấy hai tên kia thì sợ hải lắm, ngồi nép vào tôi trốn.

Chúng bắt đầu lục xét ghe khiêng đi cái máy F10 sơ cua và lấy đi cả chục can dầu. Thậm chí những thức ăn để lâu được như bánh tét, chả lụa ... cũng bị bọn chúng mang qua tàu chúng nó. Bọn cướp vừa chuyền nhau ăn bánh tét vừa cười cợt khả ố lắm. Ban đầu tưởng chúng đuổi theo để bắt chúng tôi, nhưng bây giờ vỡ lẻ ra, chúng chỉ là những tên hải tặc bẩn thỉu, không khác gì hải tặc Thái Lan cả. Sau đó chúng xét đến chúng tôi, nhưng không phát giác được vàng bạc gì cả. Chúng nó bắt đầu nổi cáu lên, hỏi chúng tôi đi vượt biên mang theo bao nhiêu vàng bạc thì tự động khai ra đi, nếu không khai, tụi nó xét thấy được thì sẽ bắn bỏ. Ai nấy đều im lặng, chờ một lát, chúng nó hỏi ai là tài công, ai là chủ ghe, ai là người tổ chức trong chuyến đi này ...

Chúng tôi đã sắp xếp từ trước khi phát giác ra mình bị rượt đuổi, cho nên ai nấy đều trả lời là :
- Không ai thực sự là tài công, cũng không biết chủ chiếc ghe này là ai, và người tổ chức thì lại càng không biết, vì khi mới xuất phát từ ghe nhỏ ra thì bị bể, mọi người bỏ chạy tán loạn ... và người lái ghe bây giờ cũng chỉ là một người khách đi thường thôi, vì biết lái nên đành phải ngồi vào cabin lái chứ anh ta không phải là tài công thực sự của chuyến đi.

Lúc đó trời đã chiều lắm rồi, mấy tên cướp của tàu đánh cá Kiên Giang 2 sốt ruột lắm, chúng quát tháo, chưởi thề liên tục. Tên đang ở sau cây đại liên bên tàu Kiên Giang 2 nóng lòng lắm, cứ thúc dục hai tên bên ghe chúng tôi lẹ lên, lẹ lên ... Cuối cùng không tìm được gì thêm, chúng định rút lui và cho biết sẽ để chúng tôi đi. Anh T lúc đó lên tiếng xin lại cái máy F10 và mấy « can » dầu, nói rằng :
- Mấy anh cho chúng tôi đi mà lấy hết dầu thì có khác nào giết chúng tôi.

Chúng nó nói nếu chúng tôi có vàng đổi lấy máy F10 và dầu thì tụi nó sẽ cho đổi.

Anh T hỏi :

- Các anh muốn bao nhiêu ? ?
- 10 cây.
- 10 cây nhiều quá, chúng tôi đi vượt biên đâu có ai mang theo nhiều vàng như vậy ? ?
- Vậy thì 8 cây ...

Cuộc mặc cả tiếp tục như vậy cho đến khi chúng chấp nhận 2 cây vàng đổi lấy lại máy F10 và mấy can dầu. Chúng nó cắt dây trói cho anh T để anh chui xuống dưới khoang gom góp vàng của tất cả bà con cho đủ số 2 cây vàng, anh bảo tụi nó đừng xuống, vì bà con thấy chúng sẽ sợ hải và không dám đưa ra. Một lúc sau anh đi lên đưa cho chúng 10 cái khâu, mỗi cái 2 chỉ mà sau này anh cho chúng tôi biết là đã dấu ở dưới đáy ghe, đàng sau một miếng ván, không ai có thể biết được.

Lúc bấy giờ, trời đã chạng vạng tối, chúng nhận được vàng từ Anh T rồi, thì cười hô hố và chưởi thề :
- ĐM. Tụi bây đi vượt biên mà sao nghèo quá vậy ? ? Có hai cây thì còn khuya mới đổi máy F10 cho tụi bây. Bao nhiêu dầu còn lại cho tụi bây, đủ đi tới Thái Lan rồi, còn đòi gì nữa.

Xong chúng nhảy trở về tàu Kiên Giang 2 và quay mũi đi mất. Chúng tôi ai nấy còn bàng hoàng về diễn tiến vừa qua, mọi người cởi trói cho nhau và kiểm điểm lại dầu nhớt, lương thực xem còn bao nhiêu. Tình trạng quả thật thê thảm ! Lương thực không còn nhiều chỉ có một nồi cơm to, cũng đã bị hai thằng hồi nảy đá đổ vương vãi trên sàn ghe, một ít củ sắn, một ít bánh tét và bánh ú ... ngoài ra đã bị chúng nó cướp đi hết rồi. Dầu thì chỉ còn lại 3 can, trong máy vẫn còn nhiều. Theo như sự tính toán của tài công H với lộ trình mới tôi vẽ và đo lại thẳng qua Thái Lan thì cũng đủ cho chúng tôi đi được tới Thái Lan. Nước còn nguyên nên không sợ thiếu, mọi người họp lại bàn bạc và quyết định đổi hướng đi Thái Lan. Chúng tôi sẽ dè sẽn lương thực, nếu không có xảy ra thì nhịn đói 2, 3 ngày nhằm nhò gì, ưu tiên lương thực cho trẻ em và đàn bà. Cái chúng tôi lo lắng là nhiên liệu, nhưng chuyện đã tới nước này rồi thì đành liều thôi.

Ghe chúng tôi đi thêm không bao lâu thì trời nổi gió càng lúc càng lớn, từng cơn gió giật mạnh dữ dội, những đợt sóng dâng cao như một toà nhà đen thui khổng lồ đổ ập xuống chiếc ghe nhận chìm nó rồi thình lình nâng bổng nó lên lại, như thể ghe chúng tôi là một chiếc lá trong một thau nước lớn và có ai đó giơ tay quậy mạnh thau nước lên. Đây là điều mà trong khi nói chuyện hồi sáng sớm, tôi có nghe Anh T và tài công H đề cập và lo sợ : Đó là mùa này thỉnh thoảng có gió chướng nổi lên. Không ai biết được chính xác lúc nào có gió chướng. Đôi khi trời đang tốt đẹp, thình lình gió nổi lên thật dữ dội như một cơn bảo lớn trong một thời gian ngắn chừng mấy tiếng đồng hồ, sau đó trở lại êm như không có gì ... Cái nguy hiểm của gió chướng là gió giật mạnh từ nhiều hướng khác nhau, cho nên rất khó nương theo chiều gió để lướt sóng ... và thiệt là xui xẻo, chúng tôi đang lâm vào cảnh này đây ! ! !

Trừ tài công H và một tài công phụ ở trên cabin, mọi người rút xuống hết dưới hầm. Ghe chòng chành như muốn lật và rung chuyển thật dữ dội theo từng đợt lên xuống như vậy. Trong hầm chúng tôi nghe tiếng răng rắc chuyển mình của thân ghe vang lên mà không khỏi hải hùng. Chúng tôi có cảm tưởng chiếc ghe chỉ đứng một chổ chịu trận với sóng gió chứ không tiến thêm được chút nào cả ! ! Trong hầm ai nấy đều hoảng hốt lo sợ, tôi ôm con trai trong lòng miệng lâm râm cầu nguyện không ngừng, một số người đạo Công giáo bắt đầu hát thánh ca cầu xin Đức Mẹ, nhiều người đã ói mửa tùm lum, ban đầu còn chuyền cho nhau những thau nhựa để hứng, nhưng ghe chòng chành quá mạnh, mọi người ngã chúi vào nhau, nên bao nhiêu đồ ói mửa văng tung toé cả lên, sau đó thì ai buồn nôn thì cứ việc ói mửa tại chổ, không ai còn để ý đến những tiểu tiết gì nữa. Tiếng con nít khóc la, tiếng người nhốn nháo khắp nơi hoà lẩn với tiếng hát thánh ca cầu nguyện đã bắt đầu tạo nên một sự hổn loạn, mất trật tự trong khoang hầm ! !

Sau khoảng hơn 2 tiếng đồng hồ như vậy tình trạng chẳng những không khá chút nào mà xem ra còn có phần tồi tệ hơn. Chúng tôi bàn với nhau là phải tính như thế nào chứ không thể tiếp tục đi như vầy được nữa. Về phía bên tay phải, chúng tôi có thể thấy mờ mờ đảo Phú Quốc nhưng còn quá xa, bên tay trái thì Hòn Sơn Rái gần hơn. Chúng tôi quyết định phải tìm cách tránh bão trước rồi mới đi tiếp. Nếu đi về phía đảo Phú Quốc thì chúng tôi vẫn tiến về phía đàng trước của lộ trình, nhưng xa quá không biết chiếc ghe có thể chịu nổi với cơn bão không. Còn quay lại Hòn Sơn Rái bên phía trái gần hơn, nhưng quay trở lại như vậy là ngược với lộ trình sẽ phải tốn nhiều nhiên liệu hơn. Vì số đàn bà trẻ em trên ghe đông quá, chúng tôi không dám liều nên sau khi bàn bạc chúng tôi quyết định bẻ trái quay về Hòn Sơn Rái với dự tính núp tránh về hướng dưới gió, chờ qua cơn bão rồi sẽ đi tiếp.

Chiếc ghe vượt sóng, lê lết mãi cũng tới được Hòn Sơn Rái, lúc đó đã khoảng 11 giờ đêm rồi. Tài công vòng lại phía sau và ép sát từ từ vào hòn đảo để núp gió. Bổng ghe va chạm vật gì, trườn lên nó vang lên những tiếng động liên tục nghe thật khiếp vía. Có tiếng nhiều người la lớn :
- Đụng đá ngầm rồi, đụng đá ngầm rồi. Coi chừng, lùi lại mau.

Tài công H cố lui ghe trở lại, nhưng bị mắc kẹt không xoay chuyển gì được cả, chúng tôi ngồi trong hầm nghe tiếng lườn ghe chạm đá dưới nước vang lên những tiếng rợn cả người. Té ra vì trời tối không thấy đá ngầm dưới nước và vì không rành vùng biển chung quanh Hòn Sơn Rái, nên tài công đi lạc vào vùng đá ngầm hồi nào không hay, đến khi bị kẹt thì đã muộn rồi, xoay trở cách nào cũng không ra được. Cuối cùng chân vịt chém vào đá ngầm cũng bị gảy luôn. Ghe vẫn nổ máy nhưng không điều khiển được nữa cứ thế lắc lư theo sóng lớn đập ra đập vào trên đá. Nước bắt đầu tràn vào dưới lườn ghe, mọi người nhốn nháo, náo động hẳn lên.

Chúng tôi đưa một số đàn bà và trẻ em lên trên khoang cho trống chổ rồi thi nhau tát nước bằng tất cả dụng cụ có thể kiếm được trong lúc đó : thau nhựa, lon, các can nhựa cắt ra phân nữa ... nhưng không thể nào tát hết nổi. Cuối cùng chuyện tới phải tới : Ghe bắt đầu bể ! Mọi người được kéo nhau rời khỏi khoang hầm lên trên, cũng may nước lúc đó tràn vào nhưng vẫn còn ở dưới lườn ghe, mới vừa ngấp nghé lên khoang hầm chứ chưa ngập nhiều. Tôi dựng con trai tôi ngồi dậy vì nó đang say sóng, nằm dật dờ. Con tôi mở mắt ra nhìn tôi và trong cảnh hổn loạn như vậy, nó hỏi tôi một câu mà suốt đời không bao giờ tôi có thể quên được :
- Tới rồi hả Ba ? ?

Tôi ứa nước mắt, trả lời con :
- Không phải đâu con, ghe bị vô nước rồi mình sẽ phải nhảy xuống ...

Tôi cố giữ bình tĩnh dặn dò thằng bé :
- Con phải nhớ kỷ. Ôm Ba cho chặt, không được buông tay ra, con nhớ chưa ? ? Ba sẽ bơi vào bờ, dù có xảy ra chuyện gì con cũng phải ôm chặc cổ Ba nghe. Nếu con buông tay ra là bị trôi đi mất, Ba không cứu được, con biết không ? ?

Tôi dặn đi dặn lại thằng bé như vậy, nó sợ hải quá đến độ không khóc nổi nữa, chỉ biết trả lời dạ dạ và gật đầu lia lịa. Tôi chụp một can 30 lít nước dùng để giải nhiệt máy, đổ nước ra hết với ý định sẽ dùng nó như một cái phao. Vừa đổ nước trong can ra, tôi vừa nói thầm với con như thay cho một lời trối :
- Con ơi nếu có mệnh hệ nào, xin con đừng trách Ba. Ba muốn cho tương lai con tốt đẹp mới dẫn con đi theo, chứ Ba đâu muốn dẫn con vào chổ chết đâu ... Rồi tôi bắt đầu cầu nguyện liên tục.

Lúc này mọi người trong hầm hầu hết đã lên khoang trên, có nhiều người đã nhảy xuống biển rồi. Ghe thì nghiêng bên này, lật bên kia theo nhịp sóng đập vào, rút ra ... Tiếng la hét, tiếng gọi tên nhau ơi ới ... chen lẩn với tiếng gào thét của sóng gió thành một cảnh tượng hải hùng chưa từng có. Tôi cõng con lên vai, bắt nó bám thật chặc cổ tôi, xong ôm cái can không 30 lít, dặn dò thằng bé một lần nữa rồi loạng choạng bước ra mép ghe để chuẩn bị nhảy xuống. Khi đến mép ghe nhìn xuống, tôi thấy một thanh niên trẻ đang đứng dưới nước, mực nước chỉ ngang đến ngực cậu ta mà thôi. Té ra chiếc ghe đã vào đến gần bờ quá mà không hay, mực nước không có sâu như tôi đã lo sợ. Tôi mừng quá la lên và gọi cậu ta thật to, chàng thanh niên ngước lên nhìn chúng tôi. Tôi la lớn :
- Em ơi ! Em làm ơn đỡ dùm con tôi một chút cho tôi nhảy xuống ...

Cậu ta đưa hai tay lên đón, tôi nằm sát xuống sàn ghe, chuyền thằng con xuống an toàn xong xuôi rồi mới nhảy xuống nước.

Nếu phải kể hết những giây phút vui mừng, sung sướng nhất trong đời mà tôi đã từng trãi qua, thì đây chính là một trong những giây phút này ! Tôi cõng con lại trên vai mà lòng tràn ngập một niềm vui không tả được, mặc dầu vẫn còn trong vòng nguy hiểm nhưng cái cảm giác sợ hải lúc nảy tự nhiên biến mất, khi biết mình còn hy vọng sống sót .

Trời tối thui ! Chung quanh lúc bấy giờ bà con cũng đã nhảy xuống đầy hết, mọi người dắt dìu nhau lội nước đi vào bờ. Tiếng la hét gọi tên người thân ầm ỉ náo động cả một vùng. Đoạn đường từ chổ chúng tôi nhảy ra khỏi ghe vào đến bờ không xa, nhưng vì sóng lớn quá và lổ chổ đầy đá ngầm dưới nước nên rất khó đi, cứ nương theo sóng đi vào được mấy bước, lại bị sóng cuốn ngược trở ra, đôi khi bị té chúi nhủi xuống nước. Chật vật thật lâu cuối cùng cha con tôi cũng vào được ghềnh đá lớn tiếp giáp với bờ. Nơi đây không có bờ cát, chỉ toàn là đá với đá. Tôi loay hoay leo lên ghềnh đá đó, mặt đá trơn tuột và đầy những con hào bám vào làm tay tôi bị cứa đứt hết, mà vẫn không leo lên được, định đi vòng kiếm chổ thấp hơn, nhưng sau một hồi mò mẩm, không thấy có chổ nào thấp hơn cả. Tôi quặp ngược và cõng con tôi về phía trước bụng, rồi một tay giữ nó, một tay lần mò cởi áo, sau đó tôi cõng con ra lại sau lưng, xé áo cuộn vào hai cánh tay và tìm cách leo lên lại ghềnh đá để vào bờ. Nhờ vải áo cuộn chung quanh đôi tay nên tôi bám vào những con hào trên đá không còn bị tuột xuống nước nữa, tôi nương theo một đợt sóng lớn vổ vào, trườn lên được trên ghềnh đá, sau đó tiếp tục trườn về phía trước cho đến khi sóng không còn tới chổ chúng tôi nữa, tôi mới đứng dậy, lần mò đi vào bờ.

Đến đây thì đã qua cơn nguy hiểm. Tôi hỏi thăm con tôi thì may mắn quá nó không bị gì cả, ngoài cái lạnh làm nó cứ run lên bần bật không ngừng và vì sợ quá nó cứ ôm chặt lấy tôi, rấm rức khóc chứ không dám kêu ca tiếng nào. Còn tôi thì người mệt rã rời, hai cánh tay và cả người rát rạt vì bị hào cứa nát như có ai lấy vật gì bén nhọn cắt ngang dọc cùng khắp . Tôi kiếm một hốc đá to khuất gió cởi áo quần con tôi vắt khô và phơi trên đá, sau đó ôm thằng bé vào lòng lấy thân nhiệt trong người hơ ấm nó và cố dỗ cho nó ngủ.

Chúng tôi trãi qua một đêm lạnh giá trong hốc đá như thế, cũng may thằng bé mệt quá nên cuối cùng cũng ngủ được. Tôi ôm con trong lòng nằm chờ trời sáng mà lòng dạ rối bời, đầu óc cứ nghĩ ngợi lung tung không biết số phận mình rồi sẽ ra sao ?

Trời mới vừa tờ mờ sáng, đã nghe tiếng người nói chuyện, gọi nhau inh ỏi làm con tôi giật mình thức giấc. Quần áo của nó phơi trên tảng đá bên cạnh nhờ gió nên cũng ráo hết nước, tôi lấy mặc lại cho con. Đến lúc này thằng bé mới xuýt xoa kêu đau. Té ra hai chân và đầu gối của nó cũng bị trầy trụa khá nhiều mà đêm qua có lẽ vì sợ quá nên nó không biết đau và tôi cũng không phát giác được. Nó vừa đau đớn vừa sợ khi thấy cả người tôi bị chằn chịt những vết cắt nát bấy nên cứ khóc rấm rức hoài, miệng thì cứ kêu Mẹ ơi, Mẹ hỡi nghe thật là não lòng ... Tôi vỗ về an ủi và bồng nó ra khỏi hốc đá.

Mọi người đang đứng trên các ghềnh đá chỉ trỏ xôn xao. Tôi đến gần thì thấy chiếc ghe đêm qua đã bị sóng đánh, đập vào đá tan nát hết, những mảnh gỗ và đồ vật cá nhân trôi lềnh bềnh cả một khoảng rộng. Cũng may tôi tìm lại được cái túi xách nylon đựng vài bộ quần áo, thuốc tây và những thứ cần thiết mang theo cho chuyến vượt biên đang trôi gần đó. Mọi thứ còn y nguyên trong túi xách nhờ thế tôi có áo để thay. Chúng tôi hỏi thăm từng người xem có ai bị gì không ... rồi chia nhau ra các hốc đá kêu tìm những người còn ẩn núp đâu đó. Mặt trời bắt đầu lên, chúng tôi tập họp lại và thật là may mắn, không một ai trong chúng tôi bị thương nặng cả. Đa số chỉ bị trầy trụa do đá và hào cắt mà thôi.

Chưa một ai trên đảo phát giác ra chúng tôi. Té ra phía sau của Hòn Sơn Rái này đầy đá và địa thế hiểm trở, cho nên không có ai ở phía này cả. Lan ra xa cả 2 phía là vách đá dựng đứng và biển, không có đường nào đi vòng. Chúng tôi bàn tán một hồi rồi quyết định leo núi đi lên, sau đó sẽ tìm đường đi vòng ra phía trước tìm gặp cơ quan địa phương trên đảo để nộp mình, chứ không còn cách nào khác hơn. Anh T và hai người trong đám tổ chức dặn dò mọi người khi trình diện sẽ khai y như lời anh ta dặn, đại khái giống như lúc nói với đám hải tặc của tàu Kiên Giang 2 là chuyến đi này không biết ai tổ chức, không biết ai là tài công ... các ghe nhỏ trên đường ra cá lớn thì bị bể nên những người tổ chức và tài công trốn mất rồi ... Anh T nói rằng giá nào anh cũng sẽ trốn vào đất liền để lo cho cả ghe trong đó có gia đình và bà con của anh nữa ... Nếu anh bị kẹt thì không có ai lo được ... anh cho biết là những chuyến tổ chức vượt biên bị bắt mà không có chủ chốt thì sẽ dễ lo hơn ...

Qua chuyến đi này, mọi người đã biết là gia đình của những người tổ chức chiếm hơn phân nữa, trong đó có cả vợ con họ ... và biết những người tổ chức này rất thật lòng cho nên chúng tôi tin lời các anh. Chúng tôi nói có cơ hội tới thì cứ trốn, còn chúng tôi sẽ khai y như vậy. Sau đó già trẻ lớn bé 106 người bắt đầu leo núi tìm đường vòng ra phía trước đảo để trình diện cơ quan địa phương. Người lớn bồng bế con nít, người khoẻ dìu người yếu ... chúng tôi cứ thế men theo những tảng đá, đi lên núi sau đó tìm đường mòn đi vòng ra phía trước như đã bàn tính.

Khi những người dân đầu tiên trên đảo nhìn thấy chúng tôi thì mặt trời đã lên cao lắm rồi. Họ ngạc nhiên nhìn chúng tôi bồng bế nhau đi cả đoàn như thể từ một hành tinh xa xôi nào lạc loài tới. Sau khi nghe kể vắn tắt câu chuyện bị nạn bể ghe đêm qua ... họ hướng dẫn chúng tôi đi xuống làng. Dọc đường đi, dân chúng trên đảo túa ra xem, họ nhìn đám đàn bà trẻ con chỉ trõ bàn tán xôn xao và tỏ vẻ thương hại lắm. Một người nào đó mang nước ra, lập tức tiếp theo nhiều người khác cũng chạy vào nhà mang nước, bánh trái, có nhiều người chặt dừa cho chúng tôi uống nữa ... được một lúc thì có hai tên công an đi tới giải tán đám đông dân chúng và hướng dẫn chúng tôi đến trụ sở Uỷ Ban Nhân Dân Xã Sơn Rái. Tại đây chúng tôi kể lại câu chuyện vượt biên bị nạn, chúng tôi cũng kể luôn vụ bị tàu đánh cá Kiên Giang 2 cướp ... và khai y như đã sắp đặt từ trước.

Lúc này tôi để ý thì Anh T và hai người khác thuộc nhóm tổ chức đã trốn đâu mất hồi nào không biết, trong khi dân chúng túa ra xem và cho chúng tôi ăn uống, họ đã nhân cơ hội này lặn mất tiêu ... nên chính thức trình diện kể cả trẻ em chỉ còn có 103 người (Sau này mới biết anh T và hai người kia móc nối được một ngư dân trên đảo trong khi ngồi uống nước, họ đã tung vàng ra mua chuộc được người này, đưa trước cho ông ta 2 cây vàng và bảo đảm nếu đưa được họ vào bờ an toàn, ông ta sẽ được thêm 6 cây vàng nữa ... nên nhớ là vào thời bấy giờ 1 cây vàng rất lớn).

Làm thủ tục « nạp mạng » tại UBND Xã xong, vì không có chổ chứa hết tất cả mọi người, họ cho chúng tôi đi vào làng xin dân chúng chổ tá túc, dặn chúng tôi mỗi ngày hể nghe loa thì phải tập hợp lại điểm danh, chờ tàu trong đất liền ra đón về nhốt.

Dân cư trên Hòn Sơn Rái này chỉ độ mấy chục nóc gia, hầu hết sống bằng nghề đánh cá hoặc làm nước mắm. Dân chúng trên đảo khá sung túc và không ai tha thiết tới chuyện vượt biên cả . Công an hoặc nhân viên trong Xã đa số là thân nhân của dân trên đảo, họ lập nghiệp nhiều đời nên mọi người đều quen biết lẩn nhau và thân tình lắm. Một điều chúng tôi không bao giờ quên là người dân ở đây rất hiếu khách và tốt bụng. 103 người chúng tôi tãn mác ra, ai ai cũng được đón tiếp rất niềm nở, chúng tôi chia nhau ra xin tá túc khắp làng. Cha con chúng tôi được gia đình của bác Bảy cho tá túc. Tôi không bao giờ quên được gia đình này, bác Bảy lúc đó đã hơn 70 tuổi rồi mà còn khoẻ mạnh lắm, Bác gái thì lúc nào cũng vui vẽ, hai con của bác lập gia đình rồi cũng cất nhà ở sát bên cho nên gần như là một đại gia đình. Mọi người nhìn thấy con tôi đều thương lắm và cứ trách tôi là nó còn nhỏ quá, dẫn nó đi vượt biên làm chi cho khổ dữ vậy. Bác Bảy nói :
- Mấy người chính quyền ở đây không dám làm khó tụi tui đâu. Họ mà rục rịch một cái là ngủ một đêm tới sáng đảo này trống trơn liền. Nhà nào cũng có ghe cộ và sống với biển cả từ nhỏ đến lớn. Chuyện vượt biên đối với tụi tui quá dễ, nhưng mà còn làm ăn được thì đi làm chi. Mấy « ổng » cũng biết vậy nên không dám khó dễ tụi tui chút nào hết.

Chúng tôi ở nhà hai bác được cho ăn uống thoải mái, tôm cá mực tươi rói. Bác gái còn bảo con dâu của bác may gấp cho con trai tôi hai bộ quần áo và cho tôi hai cái quần đùi. Con trai của hai bác mang cho tôi một bộ quần áo còn mới tinh. Chúng tôi từ chối hoài không được. Hai bác nói :
- Mấy ngày nữa đây, tàu sẽ ra đón hai cha con vào tỉnh Kiên Giang nhốt chưa biết chừng nào mới được về, nếu không nhận thì ở trong tù lấy gì mà thay đổi.

Tôi thật sự cảm động vô cùng, trong bước đường sa cơ, hoạn nạn của chúng tôi vẫn còn có những tấm lòng bác ái, nhân đạo đáng quý như gia đình bác Bảy đây cứu giúp.

Chúng tôi ở trên đảo Sơn Rái mỗi buổi sáng nghe loa tập hợp điểm danh một lần, sau đó lại tản mác khắp nơi. Được ba ngày thì tàu của tỉnh Kiên Giang ra. Sau khi làm thủ tục bàn giao với những tay công an trên tàu, chúng tôi bị lùa lên tàu rời đảo ngay. Dân chúng trên đảo tụ tập thật đông trên bờ chia tay với chúng tôi. Tất cả những người trong gia đình Bác Bảy đều có mặt. Trước khi đi bác Bảy Gái cho chúng tôi một chai nước mắm nhỉ đặc sản của gia đình bác, một trăm đồng mà bác dặn là để dành mua thêm gì cho con trai tôi ăn khi vào trong tù ... bánh trái để ăn dọc đường và khi chúng tôi lên tàu rồi, bác Bảy trai còn thảy lên cho tôi thêm một cái mền nữa. Tôi đã ứa nước mắt trước buổi chia tay thật cảm động đó.

Chúng tôi được đưa về giao cho công an Xã ở kinh thứ 11, về đến nơi thì đã chiều rồi. Tại đây chúng tôi bị phân ra làm hai : đàn ông thì bị nhốt vào những cái chuồng trông giống y như chuồng khỉ đóng bằng cây tràm lớn bằng 2 cườm tay, vuông vức mỗi cạnh khoảng 5 mét, bề cao khoảng hơn 1 mét cho nên không đứng thẳng người được, khi di chuyển phải lom khom đi mà thôi. Những chuồng này được dựng lên gần nhau, trong đó đã lố nhố người ta đầy ra rồi. Đàn bà và trẻ em thì được ở trong một căn nhà chứa rơm cách đó không xa. Con trai tôi lẽ ra ở bên căn nhà rơm đó, có mấy người đàn bà đi chung ghe đồng ý chăm sóc dùm, nhưng nó cứ khóc và nhất định không rời tôi một bước. Cuối cùng thì công an đành phải cho nó ở chung trong chuồng với tôi.

Khi thấy chúng tôi bước vào, mấy người trong chuồng tỏ vẻ bất mãn lắm, vì không gian đã chật chội rồi, nay lại thêm người thì càng chật thêm. Mọi người trong chuồng ai nấy đều nằm dưới đất, trừ một người có một cái giường gỗ nằm tuốt trong góc. Chổ cửa ra vào có để một thùng dùng để tiểu tiện, một miếng các tông đậy trên đó nhưng mùi hôi thối nồng nặc không thể nào tránh khỏi được. Theo luật « bất thành văn » ở đây, ai vào sau thì sẽ phải nằm ở gần chổ thùng tiêu tiểu này ... Cha con tôi và 16 thanh niên khác bị chọn vào chuồng này. Mấy người tù củ nhích dần vào trong để cho chúng tôi vào sau tuần tự sắp xếp nằm ở phía ngoài chung quanh chổ tiểu tiện. Trong chuồng lúc này đã chật chội lắm rồi, tất cả mọi người chia làm 4 hàng nằm đâu chân lại với nhau mà vẫn chật như nêm. Tiếng chưởi thề, càu nhàu của các người tù cũ vang lên không ngớt, qua đó chúng tôi được biết từ trước tới giờ chưa bao giờ chuồng này bị chật chội như vậy.

Trong khi những người cũ và mới loay hoay sắp xếp chổ như vậy thì người đang nằm trên chiếc giường bên trong bổng lên tiếng gọi cha con chúng tôi :
- Cái cậu có con nhỏ đó, lại đây dzới tôi.

Tôi ngước mắt lên nhìn kỷ, thì ra đó là một người đàn ông độ khoảng 55 – 60 tuổi đang giơ tay ngoắc ngoắc. Tôi còn đang ngơ ngác, thì ông ta gọi tôi một lần nữa và ra dấu bảo tôi lại gần. Trên mặt đất lúc đó đầy cả người mà ai cũng đang loay hoay tìm cho mình một tư thế thoải mái trên phạm vi chật hẹp, tôi chần chừ vì không có chổ bước đi tới. Ông ta bổng nạt ngang :
- Tụi bây nép ra một chút cho người ta đi tới được không ?

Mấy người dưới đất gần chổ ông này nghe nạt như vậy vội nép sát vào nhường chổ cho tôi bước tới. Gọi đó là cái giường cho có vẻ đặc biệt so với hoàn cảnh hiện tại, chứ thật ra chổ của ông này nằm chỉ là mấy miếng gỗ tạp nhạp được đóng sơ sài thành một mặt phẳng nhỏ vừa đủ cho một người nằm, nhưng như vậy cũng chứng tỏ sự đặc biệt của ông này ở đây lắm chứ không phải đùa. Trong bụng tôi liên tưởng tới mấy tay anh chị giang hồ đàn anh, một loại Đại Bàng trong tù mà tôi có dịp đọc trong sách truyện hoặc nghe kể trước đây ... nhưng qua hình dáng của ông này, ngoài cái vẻ ông ta có thể là người lớn tuổi nhất trong chuồng, còn lại thì thấy bề ngoài cũng hiền hậu chứ đâu có gì đâu mà mọi người lại có vẻ sợ ông ấy như vậy. ?

Khi tôi tới gần, ông ta ra dấu bảo tôi ngồi xuống ngay sát giường của ông, lúc này tôi mới để ý thấy hai chân của ông bị một sợi lòi tói xiềng ngang, ăn luồn với một cái cùm to xuyên luôn ra ngoài chuồng. Ông ta vò đầu con trai tôi hỏi :
- Cháu bao nhiêu tuổi rồi ? ?

Thằng con tôi thấy chân ông ta bị xiềng như vậy thì sợ quá, lí nhí trả lời :
- Dạ con 5 tuổi rưỡi.

Ông ta cười lớn ra vẻ thích thú lắm, nói giọng miền Nam rặt :
- 5 tuổi thì nói 5 tuổi, còn có dzụ 5 tuổi rưỡi nữa.

Rồi ông hỏi thăm tôi về gia cảnh, công ăn việc làm ... về chuyến vượt biên vừa rồi ... sau đó lấy một cái mùng nhỏ dưới đầu nằm ra đưa cho tôi và bảo mấy người dưới đất nhường chổ để cho cha con tôi nằm sát chân giường của ông ta, một chổ tương đối sạch sẽ ... Lúc này trời đã bắt đầu sập tối, một vài người tù cũ thắp lên mấy ngọn đèn dầu trong hũ chao nhỏ, tim đèn được se bằng vải, ánh sáng heo hắt rọi lên một lũ người lúc nhúc trong một cái chuồng lớn như vầy, thật không biết phải tả làm sao hết cái cảm khái của một kiếp người !

Đồ đạc của mọi người đều phải treo tòn ten dọc theo các cây tràm trên đầu nằm. Không có gì trải dưới nền đất cả, tôi phải lấy cái mền gia đình Bác Bảy trên đảo cho ra trải dưới đất cho con tôi nằm. Phạm vi dành cho cha con chúng tôi chỉ khoảng 7 tấc bề ngang, nhưng nhờ ăn gian vào dưới lòng chiếc giường nhỏ, khi nằm chân tôi chéo vào dưới gầm giường nên khoảng co giãn tương đối rộng rải hơn các người khác. Tội nghiệp anh chàng B và những thanh niên khác vào chung chuồng với tôi, chổ nằm đã chật chội lại còn vướng vào cái thùng tiêu tiểu rất là khổ sở.

Sau khi tạm ổn định thì chúng tôi trò chuyện làm quen với nhau. Qua câu chuyện, tôi được biết tất cả những người tù ở đây là người địa phương, đa số bị tội hình sự cướp giật, đâm chém người khác ... chờ ngày giải ra Tỉnh Kiên Giang xử. Riêng trường hợp của ông già nằm trên giường có hơi khác một chút. Ông ta tên Thời, là một người khá giả có tiếng tăm ở địa phương. Đất ruộng của ông khá nhiều, đa số bà con hoặc con cháu của ông là công an hoặc cán bộ chức sắc rải rác khắp tỉnh Kiên Giang chứ không riêng gì địa phương ở kinh thứ 11 này. Ông có tới 3 bà vợ và an bài mỗi bà một cuộc sống tương đối sung túc lắm. Một hôm ông ta phát giác tại trận bà vợ thứ 3 ngoại tình với một người khác. Ông ta lấy mã tấu chém hai người chết liền tại chổ, sau đó bình tĩnh cầm mã tấu còn vấy máu đi ra trụ sở công an đầu thú. Gia đình ông và tất cả dân trong vùng khi hay tin đều sửng sốt, vì bình thường tuy ông ít nói nhưng hiền hậu lắm.

Lẽ ra ông đã bị di chuyển đi ra tỉnh nhốt chờ ngày ra toà lâu rồi, nhưng vì gia đình chạy chọt và các công an ở đây đa số đều là bà con, nên ông mới còn được giữ tại chỗ này, đến khi chúng tôi vào thì ông ở trong chuồng cũng được hơn nửa năm rồi. Ban đầu thì ông không có bị xiềng, nhưng một buổi sáng công an mở cửa cho người trong tù ra ngoài đi vệ sinh và khiêng thùng phân tiểu đi đổ ... thì có một tên công an, vai vế là cháu gọi ông bằng cậu, nói gì đó làm ông nổi giận quất cho nó một đấm vào mặt, máu mũi phun tùm lum ... hai tên công an khác nhào vô can bị ông rượt đánh luôn, chúng nó có súng nhưng không thằng nào dám bắn, vì tay công an trưởng đồn ở đây cũng là bà con gì đó với ông. Từ đó tay trưởng đồn dù muốn che chở nhưng cũng phải ra lịnh xiềng ông lại. Ngay cả mỗi sáng khi cho tù ra ngoài, chúng cũng chỉ cởi còng để ông đi ra, chứ chân vẫn bị xiềng. Mấy người tù trong chuồng ai cũng sợ ông, cái thành tích giết người lạnh lùng cộng với chuyện rượt đánh công an đủ làm cho biệt danh Thời Mã Tấu nổi tiếng từ đó.

Nhờ có cái mùng nhỏ của ông Thời cho mượn nên cha con tôi khỏi bị muỗi đốt, nhưng đêm đó tôi không tài nào ngủ được. Sau khi an ủi,vổ về thằng con ngủ xong, tôi cứ thao thức hoài, phần vì chật chội, lại không dám động đậy sợ đánh thức con tôi dậy, phần vì lo lắng đủ thứ, đã vậy chuột ở đâu ban đêm ra nhiều quá, lâu lâu lại có tiếng người bực bội la lên vì bị chuột chạy lên mình ... rồi thỉnh thoảng lại có người len lỏi đi ra phía cửa để đi tiểu, đạp nhằm lên chân hoặc đầu của ai đó đang nằm ... thì lại nghe tiếng càu nhàu chưởi thề vang lên ... cả đêm cứ tiếp diễn như vậy, đến khi chính tôi mắc tiểu, tôi phải ráng nhịn, không dám đi .

Anh chàng B và mười mấy thanh niên nằm như cá hộp thành bốn hàng phía gần cửa cũng không ngủ được, tôi thấy họ lăn qua trở lại và giơ tay phe phảy tờ báo làm quạt đuổi muỗi liên tục mà thấy thương cảm vô cùng, đã vậy thỉnh thoảng có người bên trong lom khom ra đi tiểu, họ lại phải ngồi nép dậy chừa chổ cho người đó đi tiểu, thật là khổ ! Tôi ngồi trong mùng chứng kiến những cảnh đó qua ngọn đèn tù mù mà lòng lo buồn vô hạn. Nếu cứ bị nhốt ở đây với điều kiện tồi tàn như vầy thì sớm muộn gì cũng bị bệnh. Lo nhất là cho con tôi, lỡ mà bị bệnh lúc này thì quả thật là khổ.

Trời mới tờ mờ sáng, xa xa vừa nghe có tiếng gà gáy đợt nhất, thì trong chuồng đã có người lục đục dậy rồi. Tiếng ho khọt khẹt đâu đó và tiếng diêm quẹt mồi thuốc gây cho tôi cái cảm giác bớt cô đơn trống trải hơn đêm vừa qua. Lòng tự an ủi rằng sau tai nạn bể ghe cha con tôi vẫn còn sống ... sau đêm dài, trời lại sáng, không có gì phải buồn lo cả ... Với ý nghĩ đó, tôi tự tin hơn và chuẩn bị chờ đón một ngày mới.

Một lúc sau, mấy người đàn bà ở trong căn nhà chứa rơm gần đó túa ra mấy cái chuồng nhốt tụi tôi hỏi thăm tíu tít. Ôi thôi vợ chồng con cái người trong chuồng, kẻ bồng con đứng xa xa bên ngoài nói chuyện, có người khóc lóc trông thật hết sức thương tâm. Được chẳng bao lâu thì một tên công an chạy ra xua đuổi mấy đàn bà trẻ con trở vào lại trong nhà chứa rơm. Khoảng hơn 6 giờ sáng, chúng đìểm danh chúng tôi bằng cách đếm số người. Người ngồi bên ngoài đếm 1, người kế tiếp đếm 2 ... cho đến số 36 là hết. Sau đó chúng mở cửa cho chúng tôi ra ngoài phía sau ruộng tiểu tiện và tắm rửa tại một cái ao lớn, mỗi lần như vậy khoảng 8, 9 người ra ngoài và chỉ được khoảng 15 phút là phải trở vào, hai thanh niên đi chung ghe với tôi được cử khiêng thùng nước tiểu ra ngoài đổ và rửa thùng, họ được ưu tiên nữa tiếng đồng hồ cho việc này và làm vệ sinh cá nhân .

Trong khi chúng tôi ra ngoài, có mấy tên công an cầm súng đứng canh xa xa. Cha con chúng tôi được dẫn ra phía ruộng đàng sau, tôi bảo con tôi phải ráng tiêu tiểu, không mắc cũng ráng đi, chứ đừng để khi vào trở lại, rủi mắc đi lúc đó thì khổ lắm ... Thằng bé chắc cũng hiểu được hoàn cảnh khó khăn hiện tại như thế nào cho nên tôi bảo gì nó cũng nghe, không dám cãi lại. Mọi chuyện vệ sinh cá nhân, tắm rửa qua loa rồi cũng xong. Khi chúng tôi vào lại hết bên trong rồi mới tới phiên ông Thời, một tên công an mở khoá và rút còng từ phía ngoài chuồng, với sợi lòi tói còn xiềng ngang hai chân, ông lom khom đi ra. Riêng ông ta, chúng cho ở ngoài gần cả tiếng đồng hồ mới vào tra còng lại như cũ. Sau đó chúng điểm số người lại.

Buổi sáng tình hình có vẻ khá hơn, mấy người tù cũ xem ra thông cảm và thân thiện hơn hôm qua nhiều, họ mời thuốc lá và nói chuyện với chúng tôi cởi mở lắm. Riêng ông Thời hình như mến cha con tôi thật sự, ông lấy bánh in trong túi xách treo trên đầu nằm cho con trai tôi ăn. Bên ngoài, mấy tên công an bày ra một cái bàn nhỏ, pha cà phê và bán bánh ú, bánh tét, thuốc lá cho tù ... Mấy người tù bên chuồng này gọi qua chuồng kia hỏi thăm lẩn nhau, chen lẩn tiếng gọi mua cà phê thuốc lá tạo nên một không khí sôi động hẳn lên. Ông Thời mua cho tôi một ly cà phê, chúng tôi phì phèo thuốc lá thơm Sa Mít, nhấm nháp cà phê nói đủ thứ chuyện trên đời ra vẽ nhàn hạ lắm. Trong đời tôi đã gặp không biết bao nhiêu là cảnh ngộ đặc biệt, nhưng phải nói buổi sáng hôm đó là một buổi sáng tôi không thể nào quên được. Hảy thử tưởng tượng cái khung cảnh mà mấy chục con người chen chúc nhau trong lồng củi y như một chuồng thú vật, một cảnh tượng mà hình như chỉ có thể nghe nói trong một thời đại dã man xa xôi nào đó, chứ không phải là ở vào thế kỷ hai mươi văn minh này, vậy mà tôi đã hiện hữu ở đó và vẫn có thể ung dung ngồi nhâm nhi cà phê thuốc lá ... lại còn tán gẩu với một tên tù sát nhân ra chiều tương đắc lắm, thì hỏi không đặc biệt sao được ? ? Cảm giác của buổi sáng hôm ấy bây giờ nghĩ lại tôi vẫn còn thấy như phảng phất đâu đây. Không biết ông Thời Mã Tấu đó giờ này có còn trên dương thế hay không. Tôi viết lên mấy dòng này như là một phút hồi tưởng đến ông, tâm trí vẫn còn nhớ rõ dáng ông ngồi trên chiếc giường nhỏ, tay phe phẩy cái quạt mo cau vào một buổi sáng cuối tháng 10/1980 tại kinh thứ 11, tỉnh Kiên Giang.

Trong lúc nói chuyện, chúng tôi mới cảm thông cho những người tù cũ về thái độ không mấy thân thiện hôm qua. Trước khi chúng tôi vào, trong tù đã chật rồi, nhưng ít ra vẫn còn có thể di chuyển qua lại tương đối dễ dàng. Chổ để thùng tiêu tiểu ngay góc gần cửa ra vào riêng biệt một nơi và ai cần thì có thể đến đó tiểu mà không phiền đến các người khác, ngay cả ban đêm. Nhưng hôm qua hai cha con tôi cùng 16 thanh niên khác vào, con số bổng trở thành quá sức đông cho một không gian nhỏ hẹp như thế, sự di chuyển trong chuồng trở nên khó khăn, đã vậy thêm số người thì thêm đồ dùng cá nhân treo lủng lẳng chung quanh càng làm cho chật chội thêm, cho nên hầu như không ai muốn giăng mùng, vì không có đủ chổ cho tất cả mọi người, vả lại giăng mùng hết lên nóng lắm họ chịu không nổi. Riêng ông Thời, vì bị còng chân nên ông ta đi tiểu vào một cái bình nhựa nhỏ có nắp đậy, còn việc đại tiện thì ngoại trừ trường hợp « chẳng đặng đừng » ông sẽ kêu to lên để công an mở còng cho ông đi, ngoài ra thì đợi đến buổi sáng lúc được mở cửa chuồng ...

Qua tin tức của mấy tên công an bán cà phê thuốc lá cho hay, chúng tôi chỉ ở tạm đây mấy ngày thôi, sau đó sẽ được chuyển ra nhà tù Cầu Ván ở Rạch Sỏi. Nghe như vậy tôi cũng hơi yên tâm, chứ với hoàn cảnh khó khăn thế này, tôi sợ con tôi sẽ sinh bệnh thì thật là khổ.

Khoảng hơn 9 giờ sáng, từng người trong nhóm chúng tôi bị gọi lên căn nhà dùng làm văn phòng Công An để thẩm vấn, họ chỉ lấy khẩu cung lý lịch sơ sài thôi. Tôi khai tên tuổi và địa chỉ giả với nghề nghiệp là buôn bán chợ trời ... và khai đúng y như những gì chúng tôi sắp đặt từ trước. Mấy tên công an thẩm vấn tôi từ đâu tới chứ không phải ở kinh 11 này, tương đối cũng dễ chịu, đa số còn trẻ, chúng xác nhận là chúng tôi chỉ tạm ở đây mấy ngày, rồi sẽ được di chuyển về Rạch Sỏi, tình trạng này chỉ là tạm thời thôi. Tôi thiệt cầu mong sao được rời khỏi chổ này càng sớm càng tốt vì lo sợ con tôi bị bệnh quá, chưa gì mà hai cha con chúng tôi đã ngứa ngáy khắp cả người, không biết sau mấy ngày có bị ghẻ lở gì hay không ? Sau khi lấy khẩu cung xong, chúng dẫn tôi trở về chuồng lại.

Đến khoảng 11 giờ thì thân nhân của các người tù cũ mang thức ăn đến cho họ. Vì đa số là người địa phương trong vùng cho nên mỗi ngày gia đình đều mang thức ăn đến chứ ở đây họ chỉ được phát cơm và chút cá khô mốc meo mà thôi. Thân nhân của mấy người tù không được đến gần chuồng, họ để thức ăn trong một chổ qui định trước cách đó không xa, có hai tên công an kiểm tra thức ăn xem có mang gì cấm không rồi mang đến từng chuồng đọc tên dán trên giỏ hoặc bên ngoài bao nylon cho người tù nhận, sau đó chúng mang những lọ, hũ không của ngày hôm trước được các tù nhân tập trung sẵn ở phía ngoài, trả lại cho các thân nhân tù. Các người tù và thân nhân bên ngoài nói chuyện hỏi han gia đình nhà cửa, nhắn gởi này nọ ... được một lúc rồi giải tán.

Tôi ngồi trong chuồng chứng kiến cảnh tù và thân nhân bên ngoài nói chuyện với nhau mà thấy não lòng. Họ la hét thật to, tiếng người này trùng lấp lên người kia, đôi khi phải la lớn và lập đi lập mấy lần đối tượng mới hiểu được người thân của mình muốn nói gì ... Ông Thời cũng được một bà vợ mang tới một giỏ xách. Đám tù vượt biên chúng tôi dĩ nhiên là không ai có thân nhân tới thăm nuôi, đứng nhìn cảnh đó mà nhớ tới gia đình của mình dễ sợ, ở nhà giờ này chắc gia đình đang lo lắng cho chúng tôi lắm, hoặc có thể nghĩ rằng chúng tôi đã đi tới nơi bình an rồi cũng không chừng ! ! !

Một lúc sau có một tên công an đến mở cửa chuồng, gọi hai thanh niên trong nhóm vượt biên chúng tôi ra ngoài đi khiêng một nồi cơm thật lớn đến, các chuồng bên cạnh cũng có hai người ra khiêng cơm như vậy, cánh đàn bà và trẻ em bên căn nhà chứa rơm thì được phân phát gạo và nồi để tự nấu cơm lấy. Sau đó chúng tôi được phát mỗi người một cái tô, muỗng nhựa, cơm và một ít cá đuối khô. Phải công nhận là cơm gạo trắng tinh rất ngon, được phát rất dư dã. Tôi lấy chai nước mắm của gia đình bác Bảy đã cho lúc rời đảo ra rưới lên cơm ăn, sau đó chuyền cho B và đám thanh niên đi cùng. Riêng con trai tôi được ông Thời cho thức ăn nên cũng đỡ. Cơm nóng rưới nước mắm nhỉ đặc chế lên ăn ngon một cách không ngờ. Có lẽ một phần cũng do cả ngày hôm qua chúng tôi chỉ ăn ít bánh trái của bác Bảy cho trong lúc tàu chở từ đảo vào đất liền, nên đói bụng quá ăn cảm thấy ngon chăng ?

Buổi chiều nắng trở nên gay gắt hơn, nhưng trên nóc chuồng đã được phủ một lớp lá dừa nước nên cũng đỡ khổ, tôi tự hỏi chúng tôi sẽ ra sao nếu trời đổ mưa xuống. ? Một số tù bày ra chơi cờ tướng hoặc cùng nhau đánh bài tiến lên ăn thuốc lá, tôi nằm nói láp dáp với con tôi một hồi rồi mệt quá ngủ được một giấc. Tỉnh dậy không biết làm gì, tôi đề nghị kể truyện chưởng cho anh em trong tù nghe. Mọi người nhiệt liệt ủng hộ. Tôi bắt đầu kể bộ Thiên Long Bát Bộ cho họ nghe, cứ nhớ đâu thì kể tới đó, vậy mà họ khoái quá ngồi nghe say sưa, rồi bày bánh trái, thuốc lá ra mời tôi lia chia . Tôi kể mãi cho đến khi công an mở cửa để hai người ra khiêng cơm cho buổi chiều thì tạm ngưng, ăn uống xong chưa kịp gì hết là mọi người đã nhao nhao yêu cầu tôi kể tiếp Thiên Long Bát Bộ ... Thấy ai nấy vui vẽ, tôi cũng nhiệt tình kể cho đến khuya ... nhờ bộ truyện này mà chúng tôi ít nhiều cũng tạm quên đi được thân phận tù đày của mình.

Chúng tôi ở đó đúng 6 ngày, bộ Thiên Long Bát Bộ tôi đang kể dở dang chưa xong thì tàu đến di chuyển chúng tôi đi nơi khác. Lúc này mọi người trong chuồng ai nấy đều mến cha con chúng tôi lắm. Lại một lần chia tay thật cảm động nữa xảy ra trên bước đường chông gai của cha con tôi. Tội nghiệp ông Thời cứ ôm con trai tôi vào lòng vuốt tóc nó hoài, ông không nói nhưng tôi biết ông xúc động lắm.

Trại tù mới của chúng tôi là trại Cầu Ván ở Rạch Sỏi. Đây là một trại tù chuyên nhốt người vượt biên rất nổi tiếng. Những ai ở Rạch Giá hoặc đi vượt biên bị bắt ở vùng Rạch Giá thì đều biết nơi này. Trại tù được ngăn làm hai : một bên nam, một bên nữ, gồm nhiều dãy láng trại đa số làm bằng cây tràm và lợp bằng lá dừa nước. Do phong trào vượt biên lúc bấy giờ bành trướng một cách không ngờ, cho nên người bị bắt vào đây gần như ngày nào cũng có. Số người trong trại do thế đông một cách khủng khiếp. Khi chúng tôi vào đến đây, con số đã trên một ngàn người rồi. Những láng trại phía bên ngoài đều đầy cả người.

Chúng tôi được đưa vào tuốt phía trong sát với một vách tường thật cao, trên đó có vẻ một chiếc tàu đánh cá kiểu Thái Lan thật lớn, chổ này là nơi trước đây có lúc được phân chia riêng biệt dùng để nhốt các ngư phủ Thái Lan đi lạc vào hải phận Việt Nam, trên tường viết chằng chịt đầy những chữ Thái Lan ... Sau này tôi nghe kể lại, họ bị nhốt ở đó cũng hơn cả năm mới được trao trả về cho chính phủ Thái Lan.

Đằng sau láng trại chúng tôi ở là dãy nhà xí. Ruồi nhặng nhiều vô số kể, vấn đề vệ sinh thì khỏi nói cũng có thể đoán là tệ hại vô cùng. Mỗi ngày có mấy người được đề cử đi gánh tro ở một nhà máy đường gần đó mang về đổ lên trên những hố tiêu tiểu, nhưng cũng chẳng nhằm nhò gì, ruồi nhặng và mùi hôi thối vẫn thật kinh khiếp, không thể tả nổi.

Khi chúng tôi đến, thì đang có dịch kiết lỵ hoành hành. Trong trại có một trạm xá do một bác sĩ cũng bị bắt về tội vượt biên chăm sóc hoặc phát thuốc cho người bệnh, nhưng thuốc men thì cũng chẳng có gì. Các người tù ai có thăm nuôi hoặc có tiền thì gởi mua thuốc bên ngoài, ai không có thì chỉ có nước chịu trận. Trước khi chúng tôi đến mấy ngày, đã có hai người chết vì bệnh kiết lỵ rồi, chúng tôi nghe kể mà không khỏi lo lắng trong lòng.

Quả nhiên điều lo sợ của tôi đã trở thành sự thật, qua ngày thứ ba con trai tôi bị kiết lỵ. Nó đi tiêu chỉ ra tí phân lỏng có pha lẩn máu ... và đi rất nhiều lần trong ngày, chỉ qua một ngày đi tiêu như thế mà con tôi trông ốm nhom, người xanh xao thấy rõ. Tôi có mang theo mấy viên trụ sinh trước khi vượt biên cũng không làm giảm được. Ban đêm tôi thức cả đêm trông chừng nó, lòng lo lắng vô cùng và cầu nguyện liên tục. Bổng dưng có một người ở láng trại kế bên, biết chuyện con trai tôi bị bệnh, đến hỏi han và bày cách cho con tôi uống trứng gà sống sẽ trị được kiết lỵ. Anh ta nói cứ đập một lổ nhỏ trên trứng gà và cứ thế nút cho hết quả trứng, nếu cảm thấy khó uống kiểu đó, thì bỏ vào tí muối sẽ dễ uống hơn, anh ta nói đây là cách Mẹ anh ta đã dạy.

Thế là sáng hôm sau tôi gởi mua ngay một chục trứng gà. Ở trại này, buổi sáng dân chúng được phép mang thức ăn rau cải, cá thịt ... bày ra sát ngay phía ngoài hàng rào, như một cái chợ chồm hổm nhỏ để bán cho người tù bên trong, chứ trại tù đâu đủ lương thực cung cấp cho tù nhân. Đa số những người tù vượt biên sau một thời gian ngắn báo tin về, đều có thân nhân đến thăm. Ai không có thân nhân thì những người đi cùng ghe giúp qua lại cũng xong. Đúng y như người đó đã nói, con trai tôi sau khi nuốt sống 6,7 quả trứng gà, bệnh kiết lỵ tự nhiên khỏi hẳn. Thật không gì tả hết được nổi vui mừng của tôi lúc đó ! ! !

Hai hôm sau, chúng tôi lại có tin vui lớn đưa tới : Sau khi từ đảo Sơn Rái mua chuộc được một ngư dân lén lút đưa về đất liền, ba người trong đám tổ chức vượt biên đã dò hỏi, biết được chúng tôi đang ở trại Cầu Ván, Rạch Sỏi và đang tìm cách chạy chọt cho chúng tôi. Tin tức nhắn vào bảo chúng tôi cứ an tâm, họ đang lo cho cả ghe ra và nhớ là cứ khai như đã đặn dò từ trước thì mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn cho việc lo lót bên ngoài. Nhận được tin đó, chúng tôi mừng như bắt được vàng. Qua bữa sau đã thấy lai rai có gia đình của những người ở tại kinh 5 đi cùng ghe chúng tôi đến thăm nuôi, trong đó có anh chàng B cũng được vợ đi thăm.

Khi biết được có một người trong nhóm tổ chức vượt biên tên là ông Ba P đến thăm vợ ông ta cũng đang còn kẹt với chúng tôi trong tù, (ông Ba P này là người ở Sài Gòn, chịu trách nhiệm giao dịch với nhóm khách vượt biên trên thành phố, ông ta cũng là một trong 3 người trốn chung với Anh T từ đảo Sơn Rái về đất liền trước đây và biết gia đình tôi ở Sài Gòn rất rõ), thì tôi xin với ban trưởng trại gởi con trai của tôi cho ông ta dẫn về Sài Gòn dùm tôi. (Ở trại này con nít nếu được thân nhân tới bảo lảnh thì thả về ngay). Ông ta ký trên một mẫu đơn bảo lảnh in sẳn, cam đoan là sẽ dẫn nó về nhà cho gia đình tôi đàng hoàng. Ban đầu con tôi không chịu, nó khóc lóc dữ quá, tôi phải dổ dành mãi, ông Ba P cũng an ủi nó ... cuối cùng thì nó chịu. Gởi được con tôi về nhà trước, tôi thấy an lòng lắm, nó ở đây ngày nào, tôi thật lo lắng ngày nấy. Còn thân tôi thì dù sao chịu đựng khổ cực cũng nhiều rồi, nên tôi không lo cho bản thân mình, mặc cho số phần tới đâu thì tới.

Trong thời gian ở tại đây tôi có quen với nhiều tay tổ chức vượt biên, những người chuyên môn lo việc taxi từ cá bé đưa ra cá lớn ... cho nên biết được nhiều mánh khóe tổ chức vượt biên, chổ nào mua bán hải bàn, hải đồ ... những tên tuổi và cách thức liên lạc với họ để tìm mua « đồ nghề » tại Sài Gòn ... ..điều này giúp cho những chuyến vượt biên sau này của tôi rất nhiều. Cũng trong thời gian này tôi có làm quen và kết nghĩa anh em với một thanh niên trẻ tên Nguyễn Thành Lộc ở khu Dân Sinh, Quận Nhất, Sài Gòn đi vượt biên bị bắt vào trước tôi cả tháng.

Đứa em nuôi này nhỏ hơn tôi gần 10 tuổi, cũng thật rất đặc biệt, Lộc đang làm giáo viên dạy cấp 1 tại Sài Gòn. Cậu ta còn trẻ nhưng rất rành về kinh kệ, ở khu Dân Sinh gia đình cậu ta có một sạp bán quần áo củ và dân buôn bán quanh đó đa số là dân bậm trợn « bán trời không mời thiên lôi », vậy mà dần dần bị cậu ta thuyết phục giảng giải làm sao không biết, từ từ tu tâm dưỡng tánh lại hết và đa số tập trì kinh theo cậu. Ngay trong gia đình của Lộc, mấy người anh của cậu cũng thuộc hàng dữ dằn lắm, vậy mà rất nể phục cậu ta và cũng từ từ nghe theo lời khuyên bảo, tất cả mấy anh chị em trong nhà đều trì kinh mỗi ngày, người thì trì kinh Pháp Hoa, kẻ thì trì kinh Kim Cang ...

Riêng Má của Lộc già rồi, lại không biết đọc chữ vậy mà cậu thuyết giảng và khuyến khích bà cũng trì kinh theo cậu ta luôn. Cậu giúp cho Má cậu trì kinh bằng cách đọc trước một câu ngắn, Má của cậu lại đọc theo, cứ tiếp tục như vậy mỗi tối trước khi đi ngủ, hai mẹ con đọc, tụng một phẩm trong kinh Pháp Hoa ... Hết cuốn kinh lại đọc trở lại từ đầu ... Khi tôi quen với Lộc, chính cậu là người thuyết giãng cho tôi nghe về kinh Pháp Hoa và khuyến khích tôi sau này về thì phải nhớ trì kinh Pháp Hoa. Chỉ một thời gian ngắn quen biết thôi, nhưng hai anh em chúng tôi thật thân thiết và hiểu biết lẩn nhau như đã quen từ rất lâu rồi vậy. Thành thật mà nói chính cậu em kết nghĩa này đã thay đổi quan niệm sống của tôi rất nhiều và điều đó còn ảnh hưởng mãi cho tới ngày nay.

Chúng tôi kẹt tại Cầu Ván, Rạch Sỏi đúng 1 tháng 10 ngày thì tất cả mọi người cùng chuyến vượt biên được thả về hết. Công nhận đám tổ chức chạy chọt lo lót bên ngoài hay thiệt ! Chúng tôi được thả ra thì trời đã trưa rồi, không còn chuyến xe đò nào về Sài Gòn hết. Tôi theo anh chàng B về lại kinh 5 tá túc ở đó một đêm, qua hôm sau mới đón xe về Sài Gòn. Gặp lại vợ con và người thân sau chuyến đi này quả thật cứ như một giấc mơ.

Đó là chuyến vượt biên thứ nhất của cha con tôi và cũng là chuyến đi đã để lại trong ký ức tôi nhiều kỷ niệm đáng nhớ mà tôi nghĩ suốt cuộc đời không bao giờ mình có thể quên được.
(Phố Đá Tròn 2005/07)
 
Chuyến Vượt Biên Thứ Hai

Vĩnh Khanh, Phố Đá Tròn, C/N 2011/08
Sau chuyến vượt biên đầy gian truân đó, tôi nghĩ là sẽ không còn dịp nào đi được nữa, nhưng chỉ khoảng 2 tháng sau cơ hội lại đến thử thách tôi. Lần này Anh T lên Sài Gòn trực tiếp tìm gặp tôi. Anh ta cho hay lần thất bại vừa rồi khiến anh te tua hết, mấy chuyến thành công trước đây gom lại, bị cú thất bại làm tiêu sạch. Những chuyến tổ chức vượt biên trước đây, anh luôn luôn là người chủ chốt, quyết định mọi việc, những người khác chỉ phụ với anh thôi, nhưng hiện nay anh không làm được như trước nữa, vì không còn khả năng mua nổi con « cá lớn » và những chi phí ứng trước cho việc lo bến bãi, giờ đây anh chỉ phụ trách một phần tổ chức cho người khác thôi.

Trong tổ chức mới này, anh chịu trách nhiệm một số khách trên thành phố và lo việc mua máy móc cùng hải bàn, hải đồ ... Chuyện ghe cộ, bãi bến có nhóm khác lo. Anh hỏi tôi có muốn đi nữa không ? Tôi thú thật với anh, sau chuyến đi vừa rồi tôi và gia đình vẫn còn bàng hoàng quá, nên chưa quyết định được. Anh nói sẽ dành chỗ cho hai cha con tôi như lần trước nếu như muốn đi, không tốn kém gì cả cứ suy nghĩ và cho anh biết trước khi anh trở về lại miền Tây, đồng thời anh hỏi tôi có biết chỗ nào bán hải bàn, hải đồ không, lần này anh lên thành phố nghe tin mấy tay bán đồ nghề anh biết trước đây bị bắt hết rồi, anh nhờ tôi liên lạc mua dùm một cái hải bàn, hải đồ, tiền bạc anh sẽ lo.

Sau chuyến đi vừa rồi, tôi thấy tin tưởng vào tổ chức và việc làm của nhóm Anh T Riêng cá nhân của anh, tôi thấy mến anh thật sự vì anh không phải là người tổ chức vượt biên chỉ biết lấy tiền của khách rồi nếu lỡ xảy ra chuyện gì thì phủi mặc để khách bị thiệt thòi ... Sau lời đề nghị đó, tôi nói với anh là tôi sẽ bàn với gia đình rồi quyết định sau, ngay cả nếu tôi không đi, tôi cũng sẽ chỉ cho anh chỗ mua « đồng hồ, giấy, thước kẻ » (danh từ « nguỵ hoá » ám chỉ hải bàn, hải đồ và thước đo toạ độ ... của dân vượt biên hay dùng). Trong lần bị bắt giam tại Cầu Ván, Rạch Sỏi, tôi có làm quen được mấy tay tổ chức vượt biên cũng bị bắt vào đây, họ có kể tôi biết một số kinh nghiệm tổ chức và mấy địa điểm mua bán đồ nghề do đó tôi biết được mấy nơi chuyên môn mua bán những thứ trên, kể cả biệt hiệu và cách liên lạc với đám này.

Lúc đó khoảng giữa tháng 01/1981, gần Tết ta rồi. Mọi người xôn xao lo đón Tết, tôi bàn với vợ tôi về đề nghị của Anh T, vợ tôi buồn lắm nhưng cũng khuyến khích cho tôi và con trai tôi đi nữa. Lý do đơn giản là gia đình không có tiền mà có cơ hội đi như vầy thì không nên bỏ qua, nhưng làm gì thì cũng chờ qua Tết để ít nhất cùng ăn Tết với gia đình. Thế là sau đó tôi cho Anh T hay quyết định đi của cha con tôi.

Tôi nhớ lại những lời kể của mấy tay vượt biên bị nhốt ở Cầu Ván, Rạch Sỏi trước đây, dẫn Anh T đi ra đường Phạm Ngũ Lão đối diện với trạm xe buýt Thành Phố, tìm một hàng bán sách cũ ven đường. Chúng tôi đi qua đi lại nhiều lần rồi đứng lại giả vờ lựa sách cũ để mua, sau khi không thấy ai tôi mới hỏi anh chàng đứng bán :
- Có bán báo cũ ở miền Tây không anh ?

Anh ta nhìn lẹ qua tôi rồi trả lời :
- Sách báo tôi chỉ có bao nhiêu đó thôi, nếu anh lựa mà không thấy có cuốn nào vừa ý, thì cho tôi biết để tôi tìm chỗ khác rồi ra lấy sau ? ? Anh cần sách nào ?
- Lựa nãy giờ mà không thấy gì hết. Vậy mà anh Ba Nghĩa nói ở đây có, mới đi tìm thử.

Hắn ta đảo mắt nhìn quanh thật lẹ rồi hỏi tôi :

- Sách nào tôi cũng có hết, nhưng phải đặt cọc rồi tôi mới đi lấy cho.
- Chuyện đặc cọc không thành vấn đề, nhưng làm sao anh bảo đảm sách còn nguyên không bị rách ?
- Cái đó anh khỏi lo, anh về hỏi anh Ba Nghĩa xem tụi tôi làm ăn ra sao rồi trở ra đặt cọc cũng không sao ? ? Nếu hàng tụi tôi giao mà không vừa ý, anh có thể trả lại.

Như vậy là đã thông qua những ám hiệu « nhận bạn ». Chỉ đơn giản vậy thôi, nhưng nếu không nói đúng mấy ám hiệu đặc biệt thì sẽ không bao giờ tiến tới thêm được nữa. Sau khi kỳ kèo giá cả, hắn đồng ý giá 3 chỉ rưỡi cho một hải bàn PCF, một hải đồ cho vùng biển Thái Lan, Mã Lai và một thước đo toạ độ. Anh T đặt cọc cho hắn 5 phân vàng. Hắn ta dặn chúng tôi đừng đứng chờ ở ngay nơi đó, hãy đi đâu vòng vòng rồi 1 tiếng đồng hồ sau hẹn gặp chúng tôi trước xe nước mía Viễn Đông trên đường Pasteur để giao hàng. Cuộc mua bán tiến triển tốt đẹp, hàng hoá khá tốt được đựng trong một túi vải xách tay. Sau khi anh T lấy một thỏi nam châm nhỏ thử nhiều lần, cây kim của hải bàn chỉ đúng về hướng Bắc, 3 chỉ vàng còn lại được giao sòng phẳng sau đó và chúng tôi chia tay nhau.

Ngay sau khi ăn Tết xong, 5 giờ sáng ngày mồng 6 Tết cha con tôi ra điểm hẹn ở Xa Cảng Miền Tây gặp người dẫn đường. Lần này ngoài cha con tôi, người dẫn đường còn hướng dẫn thêm một người đàn bà trẻ khoảng 26, 27 tuổi và đứa con trai khoảng 4, 5 tuổi, khách từ Biên Hoà. Chị này tên K có chồng đã đi vượt biên thành công hơn 2 năm trước và đang định cư tại Úc, nay chị và con trai đi với hy vọng được đoàn tụ cùng chồng. Vì đã có chủ ý xắp xếp từ trước để tránh sự dò xét, nghi ngờ ... người dẫn đường dặn chúng tôi giả làm vợ chồng dẫn 2 con về quê. Vé mua cho chúng tôi cũng được mua ngồi chung chỗ, còn anh ta thì ngồi riêng phía trước.

Xe đò còn cách Rạch Giá khoảng 6, 7 cây số thì chúng tôi xuống ngay một điểm giữa đồng trống. Lúc này trời đã chiều lắm rồi. Đoạn đường vắng teo. Chúng tôi hai người lớn và 2 đứa con nít trông y như một cặp vợ chồng và 2 con nhỏ lẽo đẽo theo người dẫn đường phía trước. Đi ngược thêm một đoạn khá xa thì thấy lác đác bên tay phải đã có bóng dáng khu nhà dân chúng xuất hiện. Chúng tôi được hướng dẫn tắp vào một cái quán nhỏ xíu cất sơ sài ven đường, loại quán giống như một cái chòi nơi mà người ta thường treo những chùm bánh trái, nem ... bán dọc đường cho xe đò ... Phía sau quán có một ngã ăn thông ra một bờ đất chạy dài tuốt qua một căn nhà gỗ nhỏ khác, chúng tôi men theo phía sau quán đi qua căn nhà nhỏ này.

Té ra đây là một quán hớt tóc. Phía trước có một cái ghế để ngồi hớt tóc đối diện với một tấm gương soi mặt khá lớn nhưng bị bể mất một mảnh phía góc phải. Sát vách bên tay phải là mấy cái ghế đẩu nhỏ và một bộ cờ tướng bên trên, chắc là để cho khách ngồi chờ. Lúc này bên trong chỉ có một mình ông chủ kiêm thợ hớt tóc có vẻ chờ đợi chúng tôi lâu lắm rồi, thấy chúng tôi bước vào ông vội vàng ra dấu chỉ đi ra phía sau nơi có một tấm vải màn ngăn đôi che kín mít bên trong. Anh chàng dẫn đường vắn tắt kể cho ông thợ hớt tóc nghe về chuyến đi từ sáng đến giờ, sau đó giới thiệu và bàn giao chúng tôi cho ông ta rồi anh ta bỏ đi. Qua cách xưng hô của người dẫn đường, chúng tôi cũng bắt chước gọi ông thợ hớt tóc là chú Hai, ông này sẽ là người dẫn chúng tôi vào một nơi khác ếm chờ khuya ra « cá lớn ».

Lúc đó đã chạng vạng tối nhưng vì an toàn chú Hai không muốn đốt đèn. Chú nói với chúng tôi ráng chờ thêm chút nữa cho thật tối rồi sẽ đi. Trong khi chờ đợi, chú lấy bánh tét và nước trà ra cho chúng tôi ăn uống cho đỡ đói. Trời sụp tối thật mau, chúng tôi chỉ còn thấy lờ mờ mọi vật trong nhà nhờ ánh sáng của các tinh tú hắt vào qua cánh cửa phía sau.

Chú Hai cho biết chỗ nằm ếm đêm nay ngay sát bên hông một con sông lớn cách biển không xa, khuya nay sẽ lên « cá lớn » ngay trên sông này và từ đây sẽ đi luôn. Chúng tôi nghe nói sao thì hay vậy thôi chứ có biết gì đâu. Riêng chị K thì hồi hộp và lo sợ lắm, chú Hai và tôi cứ phải trấn an chị hoài. Khoảng 1930 giờ tối, chú Hai dẫn chúng tôi đi theo con đường đất nhỏ ngoằn ngoèo băng qua 3, 4 cánh đồng và mấy cây cầu nhỏ, tôi cõng con trai tôi còn chú Hai cõng giúp con trai của chị K cứ thế bươn bã đi.

Tôi cố định phương hướng nhưng cuối cùng tối quá đành chịu, chỉ mang máng cố nhớ hướng nào là quốc lộ, nhưng cũng không chắc lắm. Hai đứa bé thật là ngoan, chúng cứ im lặng để cho tôi và chú Hai cõng mà không hề rên rỉ, khóc lóc gì cả. Chúng tôi đi một lúc thật lâu trên những đường đất như thế cuối cùng bước trở lên một con đường tráng nhựa nhỏ đi tiếp, xa xa đã thấy ánh đèn và tiếng chó sủa, chú Hai cho biết sắp đến rồi. Quả nhiên không bao lâu, chúng tôi đi ngang qua một khu dân cư, hai bên đường là hai dãy nhà thụt sâu vào phía trong cách lề đường khoảng độ mười mấy hai chục mét, nghe tiếng chó sủa ầm ỉ mà không khỏi hồi hộp, lo lắng ... mặc dù hình như không có ai chú ý tới chúng tôi cả. Chú Hai dẫn chúng tôi đi qua khu nhà này khá xa sau đó tắp vào phía trái, băng vào một vườn cây ăn trái rộng lớn và len lõi đi ngược lại dãy nhà hồi nãy. Té ra chỗ « ếm » chúng tôi là một trong những ngôi nhà trong khu hồi nãy, nhưng vì sợ bị phát giác nên chú không dám đi vào từ phía trước mà dẫn chúng tôi đi vòng qua các vườn cây ăn trái rồi lòn qua ngã sau cho an toàn.

Chúng tôi được hướng dẫn vào cửa sau một căn nhà gỗ sát với vườn cây ăn trái. Một người đàn bà trạc độ 50 tuổi chờ sẵn từ hồi nào trong nhà, hé vội cánh cửa cho chúng tôi nép mình bước vào, sau đó cẩn thận gài cửa lại và với ngọn đèn dầu nhỏ trên tay, bà ta dẫn chúng tôi leo cầu thang đi lên một từng gác gỗ. Trên căn gác lúc bấy giờ đã đầy cả người ngồi trên sàn rồi. Đây là một căn gác bề ngang khoảng hơn 3 mét, dài khoảng 7, 8 mét gì đó ... Tất cả đồ vật trên gác đã được thu vén, xếp gọn vào một xó để chừa chỗ cho người ngồi. Một ngọn đèn dầu nhỏ được đặt trên cái kệ sát vách, toả ánh sáng vàng vọt, yếu ớt lên những khuôn mặt lo âu, sợ sệt của tất cả những người đang có mặt. Không khí im lặng một cách ngột ngạt, ai nấy đều có vẻ căng thẳng lắm. Họ thấy chúng tôi bước lên thì chỉ im lặng ngước nhìn. Người đàn bà dẫn đường lấy tay ra dấu cho họ nhích vào nhường chỗ cho chúng tôi, bà ta vừa cười vừa nói khe khẽ bằng một giọng địa phương rặc :

- Gáng chịu khó chật chội chút nghen. Có nói chuyện thì gáng đừng có lớn tiếng. Nhứt là mấy cháu nhỏ, gáng đừng để mấy cháu khóc ... Hông sao đâu, mấy tiếng đồng hồ nữa là êm gồi. Ai cần ghì thì cho tui biết, để tui đem lên, còn hông cần ghì thì chịu khó nghen ... chút nữa tui đem nước lên liền.
- Tụi tôi hút thuốc được không ? Một thanh niên rụt rè hỏi.

- Hút thuốc thì hông sao, mấy cháu cứ dziệc hút thả dzàn - Bà ta cười - Miễn đừng gây tiếng động hoặc nói chuyện lớn tiếng là được gồi. Gáng mấy tiếng đồng hồ nữa là êm. Ở đây cách đường dzới mấy căn nhà kia khá xa nhưng cẩn thận một chút cho chắc ăn.

Bà ta còn dặn đi dặn lại 2 lần nữa, những tiếng với âm chữ R được bà này nói ra nghe thành âm chữ G và âm V thành âm D (dzờ) nghe thật đặc biệt.

Nói xong bà ta đi xuống dưới nhà. Thật ra nếu bà không dặn thì với tình hình này, mọi người cũng tự động không ai dám nói chuyện ồn ào hoặc gây tiếng động nhiều. Lúc này tôi mới để ý quan sát kỹ những người đến trước, tổng cộng 17 người đa số là thanh thiếu niên ở lứa tuổi nghĩa vụ, có hai người trông giống như một cặp vợ chồng cùng với một bé gái khoảng 6, 7 tuổi đang ngồi trong một góc.

Tôi dặn nhỏ vào tai con trai tôi bảo nó đừng sợ, rồi ngồi xuống ôm nó vào lòng, thằng bé sợ lắm không dám hó hé điều gì chỉ ríu ríu nép vào tôi. Đứa con trai của chị K cũng ngoan lắm, nó ngồi sát vào mẹ nó im thin thít. Riêng chị K thì vẻ hồi hộp, căng thẳng lộ ra mặt, chị đưa trả tôi cái sắc tay nhỏ chị đã cầm dùm trong khi tôi cõng con tôi, qua ánh đèn tôi thấy bàn tay chị run rẫy không ngừng.

Từ dưới nhà chúng tôi nghe tiếng người đàn bà hồi nãy nói chuyện rì rầm với chú Hai, hình như bà lục đục dọn cơm cho chú ăn. Một lúc sau, bà ta trở lên gác hỏi chúng tôi :
- Có ai đói bụng muốn ăn cơm hông ? Tui có chuẩn bị sẵn một nồi cơm thiệt bự dzới cá kho ngon lắm. Ai ăn thì cho tui biết để tui đem lên. Đừng ngại ghì hết, nhứt là mấy cháu nhỏ ...

Chúng tôi không ai muốn ăn gì cả, vả lại cũng chẳng ai thấy đói, chỉ xin bà ta một ít nước. Bà ta vui vẻ nói :
- Được gồi, đươc gồi. Tui đem nước lên liền.

Một ấm nước trà đã nguội thật lớn và mấy cái ly được mang lên ngay sau đó, xong xuôi bà ta lại trở xuống dưới nhà với chú Hai, tiếng rì rầm chuyện trò giữa hai người lại vang lên. Một lúc sau chú Hai đi lên gác chuyền cho chúng tôi một hộp nhang chống muỗi, loại nhang khoanh vòng tròn. Chúng tôi chia ra đốt và đặt vào những góc nhà, nhờ thế cũng đỡ bị muỗi tấn công.

Người thanh niên ngồi cạnh mời tôi điếu thuốc, tôi cám ơn từ chối và chúng tôi bắt đầu thì thào gợi chuyện lẫn nhau. Qua cuộc trò chuyện tôi được biết có mấy người đến từ hôm qua ở địa điểm khác và cũng mới di chuyển tới đây lúc chạng vạng tối. Một số khác đi trong ngày và cũng vừa đến đây khi trời sập tối trước chúng tôi không lâu ... Đa số khách đến từ Sài Gòn và các thành phố lân cận như Thủ Đức, Biên Hoà ... Hình như còn một vài nhóm nữa nằm ếm nơi khác, theo như tin tức của những người dẫn đường cho biết thì khuya nay chúng tôi từng nhóm sẽ được đưa ra « cá lớn » trên sông Cái và từ đây sẽ trực chỉ ra biển luôn. Cậu thanh niên nói chuyện với tôi trạc 20 tuổi tên Ng đi cùng với 2 người em và cũng là khách từ Sài Gòn của Anh T, 3 anh em cậu đến chiều hôm qua và nằm chờ trong một gia đình cách nơi đây khá xa, Ng cũng không biết đó là đâu, chỉ biết chung quanh là đồng ruộng vắng vẽ lắm, 3 anh em nằm đó suốt đêm qua và cả ngày hôm nay đến chạng vạng tối mới được đưa về đây.

Chị K lúc này đã bình tĩnh trở lại, chị ngồi quạt cho con ngủ bằng cái nón vải của chị. Con trai tôi thì còn thức nhưng nằm im thin thít trong lòng nghe chúng tôi nói chuyện. Lúc này cũng khoảng 10 giờ đêm rồi, nghe phía dưới nhà có tiếng người đàn bà mở cửa sau đưa chú Hai đi ra rồi bà đóng cửa trở vào nhà lại. Tôi ghé mắt qua kẽ ván trên gác gỗ nhìn ra phía ngoài đường, nhưng không thấy gì cả. Xa xa phía sau nghe có tiếng chó sủa vẳng lại, hình như chú Hai đi băng qua mấy vườn cây ăn trái ở phía sau ... rồi tất cả im lặng trở lại.

Tôi nói với chị K dựa lưng vào vách cố nhắm mắt nghỉ ngơi một chút, chứ ngồi chờ hoài như vầy mệt mà căng thẳng lắm. Riêng tôi cũng nhích sát vào tìm thế tựa vào vách cho đỡ mỏi, bảo con tôi cố ngủ một chút. Thằng bé hình như cũng thấm với cái lo lắng của mọi người nên cứ thức trao tráo, không ngủ được.

Khi ở vào tình trạng chờ đợi như thế này, thời gian có vẻ như đứng yên một chỗ, có mấy người cứ chốc chốc lại giơ tay lên xem đồng hồ, không nói ra nhưng chắc rằng ai nấy đều sốt ruột lắm. Tôi ngồi ôm con trong lòng, nhắm mắt lại cố gắng không nghĩ ngợi gì hết. Chúng tôi ngồi như thế không biết đến bao lâu, bỗng giật mình vì nghe xa xa có tiếng chó sủa từng cơn. Một lúc sau nghe tiếng cửa sau mở, rồi có tiếng chú Hai thì thầm nói chuyện gì đó với người đàn bà. Tiếng chó sủa vẫn liên tục ở phía xa ...

Khoảng mấy phút sau chú Hai bước lên gác, mọi người hồi hộp ngước nhìn chú chờ đợi. Chú Hai có vẻ hơi mất bình tĩnh, giọng nói nghe không được tự nhiên như trước :
- Tui mới dzừa được tin một chỗ ếm gần đây bị bể rồi, tui cũng chưa biết chính xác ở chỗ đó hiện nay như thế nào ! ! ! Chỉ biết chỗ của mình vẫn an toàn và kế hoạch không có gì thay đổi. Đã có người liên lạc với mấy tay chủ chốt và sẽ cho chúng ta biết tin tức sau. Trước mắt để phòng ngừa, mình không thể ở đây được nữa, tôi sẽ hướng dẫn bà con tới một chỗ khác an toàn. Bà con đừng hoãng hốt, tụi tui đã có dự trù những tình huống xấu như dzầy, cho nên bà con cứ bình tĩnh. Chỗ mới cũng nằm ngay nơi mình « đánh » khuya nay, chờ êm rồi là từ chỗ này lên « cá lớn » luôn. Cần nhất là khi di chuyển phải giữ im lặng tối đa, mấy bà con nào có con nít thì cõng nó trên dzai, ráng giữ đừng để nó la khóc.

Nghe nói như vậy, mọi người trên gác hốt hoảng, nhao nhao lên hỏi tới tắp ... Chú Hai xua tay lia lịa :
- Từ từ đừng làm ồn ào như dzậy ! ! ! Nếu mọi người ồn ào lúc này thì chỉ có nước chết hết. Phải bình tĩnh dzà dzữ im lặng. Tui nói thiệt là tui cũng không biết gì nhiều, tin tức chót tui nhận được là một điểm ếm bị lộ, nhưng cũng không biết chi tiết ra sao, tui được chỉ thị dẫn bà con đến chỗ an toàn núp chờ người đưa tin tới. Kế hoạch "đánh" đêm nay dzẫn không có gì thay đổi ... Đã có người khác đi liên lạc dzới mấy tay chủ chốt để dò xét tình hình, người đó sẽ liên lạc cho tui biết tin tức sau, cho nên bà con cứ bình tĩnh. Mọi người chuẩn bị rồi yên lặng đi từng người xuống. Tụi tui chờ ở dưới.

Nói xong chú quay trở xuống dưới nhà. Mọi người trên gác nhốn nháo hẳn lên, chị K mặt mày tái mét, cứ níu áo tôi lắp bắp nói :
- Bây giờ mình phải làm sao đây ? ? Trời ơi ! Chắc mẹ con em chết quá.

Trong lòng tôi cũng rối beng lên, nhưng cũng ráng an ủi chị :

- Không sao đâu, chị phải giữ bình tĩnh, ráng coi chừng con chị đừng để nó khóc, bây giờ thì tôi cũng đâu biết phải làm sao, tới đâu hay tới đó thôi.
- Tôi sợ quá, nếu có gì anh giúp dùm mẹ con em với nghe. Ở đây toàn là người lạ, có gì không biết nhờ ai ...

Tôi cũng lo âu vô cùng, chưa biết sự thể ra sao và mình phải ứng biến như thế nào, nhưng nghe chị K nói vậy cũng thấy tội nghiệp, tôi cố trấn an chị :
- Không sao đâu chị, có gì thì chị cứ đi sát bên tôi, giúp được gì thì tôi giúp cho ...

Miệng nói như vậy nhưng trong bụng tôi cũng không rõ mình có thể giúp được gì cho chị trong hoàn cảnh này ? ? Tôi cúi xuống nói nhỏ với con tôi :
- Con đừng sợ nghe. Ba cõng con đi, có gì thì lấy tay đập đập trên vai ba để ba ngừng lại, hoặc là nói nhỏ bên lỗ tai Ba chứ đừng có nói tiếng lớn nghe.

Thằng con trai tôi sợ lắm nhưng không dám khóc hoặc nói gì cả, nó chỉ gật đầu lia lịa thôi.

Tôi hỏi chị K có thể cõng con của chị đi không ? Chị cũng cúi xuống vỗ về con chị rồi nói rằng chị sẽ cõng nó, chắc không sao đâu, khi nào mệt quá thì sẽ dẫn nó đi bộ.

Mọi người lục tục xuống cầu thang đứng chật hết căn nhà phía dưới. Tôi hỏi nhỏ một người đứng kế bên tôi có đeo đồng hồ. Đã hơn 1 giờ sáng rồi. Người đàn bà lúc này cũng mất đi cái nét vui vẻ lúc tối. Qua ánh đèn vàng vọt gương mặt bà thấy rầu rỉ, lo âu lắm. Bà ta hé cửa sau đi ra quan sát bên ngoài một hồi rồi trở vào cho hay là không có động tỉnh gì hết, chúng tôi có thể đi ra. Chú Hai còn cẩn thận dặn dò chúng tôi lần nữa :
- Tui sẽ dzẫn bà con đi băng qua mấy dzườn cây ăn trái, mình sẽ núp ở một chỗ an toàn. Nếu nghe chó sủa, hoặc động tỉnh gì thì cứ nằm yên tại chỗ chứ đừng nhốn nháo ...

Xong xuôi chú hé cửa sau, ra đứng nhìn quanh quất một lần chót nữa rồi ngoắc tay ra dấu cho chúng tôi đi ra. Mấy chàng thanh niên đi ngay phía sau chú Hai xen kẻ là hai vợ chồng có đứa con gái nhỏ 6, 7 tuổi mà tôi cũng chưa có dịp nói chuyện một câu nào lúc còn trên căn gác, vì họ ngồi tuốt trong góc đối diện tôi khá xa. Tôi cõng con tôi, tay xách cái túi xách, chị K cũng cõng con trai của chị, chúng tôi lần lượt nối theo đoàn người. Tôi ngạc nhiên vì trời bên ngoài không tối lắm, ngước nhìn bầu trời đầy sao tôi trực nhớ ra chúng tôi vừa qua hết ngày mùng 6 Tết và bắt đầu những giờ phút đầu tiên của ngày mùng 7 bằng cách lầm lủi trốn trong một nơi tôi cũng không rõ là đâu, số phận không biết rồi sẽ ra sao ?

Chúng tôi len lõi qua các vườn cây ăn trái, người đi sau chỉ nhắm theo bóng người lờ mờ phía trước mà lầm lủi đi. Không nghe có tiếng chó sủa nào đằng sau hoặc phía trước mặt hết, nhờ vậy chúng tôi cũng thấy an tâm phần nào, hình như chúng tôi đi ra khỏi khu dân cư nên không nghe động tỉnh gì hết. Chị K vấp mấy lần cũng may tôi đi ngay sau chị nên đưa tay đỡ phụ nhờ vậy chị không bị té.

Len lõi đi như vậy được khoảng nữa tiếng thì phía trước dừng lại. Chúng tôi đã đến cuối một khu vườn vây ăn trái, giáp mí một con đường đất và tiếp theo đó là một con sông lớn, gió thổi từ sông đến mát lạnh. Chú Hai đi ngược lại thì thầm hướng dẫn mọi người tản mác núp vào mấy gò đất lớn rải rác quanh đó. Tôi và chị K tiến lên phía trên và cũng núp vào sau một gò đất kế một gốc cây lớn. Chung quanh tối thui, chỉ nghe tiếng côn trùng hợp tấu rỉ rã làm tăng thêm vẽ kỳ bí của không gian lúc bấy giờ. Tôi cố quan sát nhưng không thấy chú Hai và những người kia đang núp ở đâu cả.

Tôi đặt con xuống một chỗ bằng phẳng rồi thì thầm hỏi thăm để chắc chắn là nó không bị gì cả và an ủi cho nó bớt sợ. Thật là tội nghiệp cho thằng bé, lúc này nó mới nói nhỏ vào tai tôi cho biết là nó mắc đi tiểu quá. Tôi dẫn nó đi trệch ra mấy bước cho nó đi tiểu, lòng thương con vô hạn. Đúng là số của con trai tôi lận đận quá, vừa sinh ra đời không bao lâu thì tôi bị đi tù cải tạo, tuổi thơ của nó thiếu thốn đủ thứ hết, đến khi tôi được thả về cũng chưa mang lại cho nó một ngày hạnh phúc, sung sướng thật sự ... Dẫn nó vượt biên những mong sẽ mang lại cho con một tương lai sáng lạn hơn, nào ngờ chỉ mang lại cho nó toàn là vất vả, cực khổ đủ thứ ... trong chuyến đi trước hai cha con lại còn suýt chết và bị tù đày nữa chứ ... Càng nghĩ tôi càng thấy đau lòng và buồn vô cùng.

Đang nghĩ ngợi lang mang và cảm khái cho số phận của hai cha con thì tôi nghe có tiếng chân người đi tới. Chị K sợ quá lấy tay đập nhẹ vào tay tôi ra hiệu cho biết. Tôi ra dấu cho con tôi ngồi yên rồi trườn người lên trên gò đất ngóng nhìn về phía trước, một người đang lom khom đi về phía chúng tôi núp. Té ra đó là chú Hai. Chú cho hay là người liên lạc vừa đến cho biết khoảng 3 giờ sáng « cá lớn » sẽ tới và kế hoạch sẽ tiến hành như dự trù. Tôi hỏi chú về vụ chỗ ếm bị bể mà chú đã cho hay hồi nãy ? ? ... Chú cho biết một người dẫn dường với hai người khách bị phát giác và bị bắt trên đường đi đến điểm ếm, nơi đó bị động rồi chưa biết tình hình ra sao ? Nhưng tất cả kế hoạch đã sẵn sàng hết, con « cá lớn » và điểm đánh vẫn an toàn cho nên mấy tay tổ chức quyết định phải liều « đánh » luôn, chứ nếu « xù » bây giờ thì với số người đông đảo từ các nơi bung ra, ngày mai sẽ rất nguy hiểm và dễ bị phát giác lắm ... Chú cho biết còn khoảng một tiếng nữa là « cá lớn » tới cho nên đi báo cho mọi người biết. Chú bảo cứ nằm im ngay chỗ, khi « cá lớn » tới chú sẽ đến hướng dẫn sau, nói xong chú lom khom đi tìm các người khác thông báo.

Tôi nghe tin tức như vậy thì lo lắm, tình hình như vầy là không ổn rồi. Nếu « cá lớn » đến mà bị lộ hoặc đang đánh mà bị « thua non » thì chúng tôi thật không biết làm sao. Tôi lại không rành địa thế nơi đây. Càng nghĩ càng tự giận mình sao ngu quá, đã không chịu dò hỏi tình hình địa lý ở đây trước để ít nhất có một khái niệm làm sao ra được đường lộ chính, từ đây đi về hướng nào để ra bến xe, chợ búa ... Nếu như chỉ có một mình, dù xảy ra chuyện gì tôi cũng có thể bung ra chạy hoặc xoay sở dễ dàng hơn, nhưng bây giờ ngoài con trai tôi, lại còn có mẹ con của chị K mà tôi chắc chắn là sẽ bám theo tôi từng bước ...

Tôi suy nghĩ lung tung cho tất cả các tình huống xấu có thể xảy ra mà không biết cách nào ứng biến cho thích hợp và dĩ nhiên là phải an toàn ... Cũng may khi chú Hai nói chuyện thì thầm trong lỗ tai tôi lúc nãy, chị K ngồi bên nhưng không biết rõ là chuyện gì. Tôi cũng không dám kể cho chị nghe tất cả tin tức tôi biết được, sợ chị rối lên cũng chẳng ích lợi gì, chỉ cho chị biết là chú Hai dặn mọi người cứ yên tâm, khoảng 1 tiếng đồng hồ nữa, ghe lớn sẽ tới và mọi người sẽ đi như dự trù ...

Chị K hình như sợ hãi lắm, tôi cảm nhận được qua giọng nói run rẩy của chị, tôi lại phải trấn an chị cứ yên tâm lo cho đứa con trai, cố gắng đừng để cháu nó lên tiếng, hoặc khóc lóc còn ngoài ra đừng lo lắng gì hết. Chị cứ luôn miệng :
- Dạ dạ, không sao đâu, thằng con em nó cũng ngoan và nghe lời em lắm, nó không có khóc đâu.

Muỗi tấn công chúng tôi liên tục. Tôi và chị K ôm con mình trong lòng mà cứ phe phẩy nón quạt không ngừng tay. Sương đêm xuống ướt cộng thêm gió sông làm chúng tôi lạnh run lên từng cơn. Ngồi chờ như vậy thật lâu, vẫn không động tỉnh gì hết. Tôi sốt ruột vô cùng, vì theo lời chú Hai nói hồi nãy, « cá lớn » sẽ tới khoảng 1 tiếng nữa mà từ nãy đến giờ chắc chắn đã hơn 1 tiếng rồi ... Đang còn miên man suy nghĩ, bỗng nghe có mấy tiếng súng nổ chát chúa ở phía trước, trong không khí yên tỉnh căng thẳng như vậy, tiếng súng nổ làm mọi người giật bắn cả lên. Rồi có tiếng ghe máy chạy và tiếng chưởi thề, quát tháo cộng tiếng chó sủa vang động phía trên sông. Chị K run rẩy níu lấy tay tôi :
- Chết rồi anh ơi, sao lại có tiếng súng vậy. Làm sao bây giờ.

Tôi cũng hoảng hồn, nhoài người lên trên gò đất nghe ngóng, thằng con trai tôi ôm cứng lấy tôi mếu máo khóc. Lại thêm mấy phát súng nữa và tiếng quát tháo nổi lên, lần này có vẻ gần với chúng tôi hơn. Không còn nghi ngờ gì nữa, chắc chắn là bị đổ bể rồi.

Tôi dỗ con tôi và an ủi cho nó nín khóc và bảo nó là khi tôi cõng nó, nó phải ôm chặc lấy tôi không được buông ra ... Nó sợ quá dạ dạ luôn miệng. Còn chị K cũng điếng hết hồn vía cứ run lẩy bẩy và níu lấy tay áo tôi cứng ngắc, con chị cũng bắt đầu khóc. Tôi thiệt là rầu, nhưng cũng phải ráng nói :
- Chị phải bình tĩnh thì mới được, dỗ cho con chị đừng để nó khóc, tôi không bỏ chị lại đâu, chị buông tay ra đi. Tôi đi đâu chị cứ đi theo sát tôi là được rồi, còn nếu chị lính quính hoài như vầy là chết hết cả đám bây giờ.

Chị buông tay ra, miệng lắp bắp giọng như muốn khóc :
- Dạ dạ, anh đừng phiền. Tại em sợ quá, anh đi đâu thì cho em đi theo chứ hai mẹ con em không biết làm sao bây giờ hết.

Lúc bấy giờ chung quanh các gò đất, những người khác cũng nhốn nháo lắm, một vài người đã bỏ vị trị núp và lom khom chạy lùi ra phía sau. Tôi nói với chị K là không thể núp ở đây được nữa, chắc chắn mọi chuyện đã bị bể rồi, tôi nhắc chừng chị về đứa con trai của chị và bảo chị cõng nó đi theo sau tôi. Trong khu vườn lúc này lố nhố đầy những người bỏ chỗ núp chạy ra, qua bóng tối mờ mờ tất cả chúng tôi trông giống như những bóng ma dật dờ ở một thế giới âm u nào đó ! !

Tôi chận một thanh niên lại hỏi có thấy chú Hai đâu không ? Không ai thấy chú đâu cả ! ! ! Mọi người nhốn nháo có ý chờ chú Hai đến chỉ đường Chúng tôi tiến thối lưỡng nan không biết đi về hướng nào, không một ai trong chúng tôi biết đây là đâu cả ! ! !

Phía trước không còn nghe tiếng la hét và tiếng súng nữa, nhưng tiếng chó sủa vẫn râm rang vọng lại không ngớt. Mọi người bàn nhỏ với nhau và đa số đồng ý là sẽ chờ thêm chút nữa, hy vọng chú Hai sẽ trở về để hướng dẫn đường ra, hoặc nếu không thì ít ra cũng chờ trời sáng một chút rồi đi, chứ đi như vầy chắc chắc sẽ bị lạc và nguy hiểm quá. Sau đó họ tản mác ra núp lại đâu đó chờ chú Hai.

Riêng tôi, tôi thấy cách đó không ổn, chuyện đã bể rồi mà cứ chùm nhum một chỗ cả đám như vầy thì dễ bị lộ quá. Tôi không thể chờ được nữa, tôi nói nhỏ với chị K là tôi sẽ đi trước, nếu chị muốn chờ với họ thì cứ chờ, còn cha con tôi sẽ tách riêng ra để dễ bề xoay sở. Đã đến nước này rồi thì tôi phải tự quyết định chứ cứ tuỳ thuộc vào chú Hai hoài trong khi lại không biết ông ta đang ở đâu. Chú đã chạy trốn mất tiêu hoặc bị bắt rồi cũng không chừng ? ? Trời thì sắp sáng, cả đám người bung ra khi trời sáng chắc chắn sẽ bị phát giác. Chị K nghe tôi nói thì xin đi theo tôi. Tôi nói với chị là tôi cũng chỉ liều đi rồi tới đâu hay tới đó chứ tôi không biết phương hướng đường xá gì hết. Chị cũng đồng ý xin đi theo tôi.

Tôi cõng con tôi đi ngược lại, lòng thầm cầu nguyện xin ơn trên hướng dẫn chúng tôi về lại được Sài Gòn an toàn. Chị K cũng cõng con lủi thủi bám theo sau. Chúng tôi lầm lủi đi liều, không biết đâu là đâu, được một lúc lâu thì ra tới một khu ruộng trống. Ra tới đây thì trời bắt đầu mờ mờ sáng, chúng tôi có thể nhìn thấy mọi vật chung quanh rõ hơn. Đây là một đồng ruộng rộng lớn, đã qua mùa gặt nên trên ruộng chỉ còn trơ lại những luống mạ khô. Chúng tôi cứ men theo những bờ đê đi đại, được một lúc thì thấy một cái chòi không có người, ba mặt trống trơn, phía sau và trên nóc được lợp bằng rơm, trước mặt chòi là một cái ao lớn. Đây chắc là nơi của những người chăn vịt hoặc đi làm ruộng nghỉ ngơi. Tôi bảo chị K núp vào đây nghỉ mệt rồi hãy tính.

Chúng tôi đặt hai đứa bé vào trong chòi bảo chúng nằm đại lên một chiếc chiếu rách đã có sẵn từ trước, còn chị K và tôi ngồi ghé vào hai bên phe phẩy quạt muỗi, hai đứa nhỏ mệt quá nên ngủ được ngay. Không ai có đồng hồ, nhưng tôi đoán chắc cũng khoảng gần 4 giờ sáng rồi, chung quanh đồng trống cho nên mọi vật tương đối rõ ràng hơn nhiều. Tôi nhìn khắp trong chòi, có một cái ấm nhôm đen thui dựa sát vào một xó. Tôi chỉ cho chị K cầm lên thử thì may quá còn nhiều nước trong ấm lắm. Chúng tôi lấy cái nắp ấm làm chén rót nước ra chia nhau uống, người thấy tỉnh táo lại rất nhiều. Hai đứa bé còn đang ngủ say, chúng tôi không muốn đánh thức chúng, nên để dành cho chúng uống sau.

Tôi bảo chị K có thể ngả người xuống một chút cho đỡ mệt, còn tôi bước ra nhìn chung quanh tìm phương hướng. Quan sát một lúc lâu tôi thấy có ánh đèn xe ở một phía thật xa. Mừng quá trở vào cho chị K hay, ít ra cũng biết đó là đường có xe cộ chạy qua lại để đi tới còn hơn là không biết sẽ đi hướng nào.

Tôi bàn với chị K để cho hai đứa bé ngủ thêm một chút nữa thôi rồi sẽ bắt đầu đi lại chứ không nên để trời sáng quá không tốt. Lúc này tôi mới để ý thấy quần áo, mặt mày của chúng tôi dính đầy bùn đất ... Như vầy là không được rồi ! ! Tôi hỏi chị K có mang theo quần áo cho hai mẹ con chị không. Chị nói có, rồi lật đật lôi trong xách tay ra. Cha con tôi cũng có mang theo 2 bộ quần áo. Tôi đề nghị phải thay đồ cho sạch sẽ hơn rồi mới đi, chứ quần áo dính đầy bùn đất như vầy thì không bảo, ai thấy cũng sẽ sinh nghi ngay.

Thế là sẵn ao nước gần đó chúng tôi men theo bờ ao tìm chỗ rửa ráy mặt mày, tay chân và thay quần áo khác vào. Sau đó chúng tôi đánh thức hai đứa bé dậy. Tôi nghiệp cả hai mệt quá mà bị đánh thức dậy nên cứ khóc rấm rức hoài. Cho hai đứa bé uống nước xong, chúng tôi rửa ráy và cũng thay quần áo khác cho chúng. Cả bọn bây giờ trông có vẻ khá hơn trước rất nhiều.

Chị K lấy trong xách tay của chị ra hai phong bánh in mà chị đã mang theo từ trước, chúng tôi chậm rãi ăn uống và bàn phương cách sắp tới. Dĩ nhiên chúng tôi cũng tiếp tục giả làm vợ chồng, khi đến đường lộ thì sẽ tìm cách hỏi thăm đường đi ra một bến xe nào đó. Tôi dặn chị K là trong mọi trường hợp, cứ theo ý tôi mà làm. Gặp chỗ có người ta mà không an toàn thì tránh nói chuyện nhiều, trừ trường hợp cần thiết ... Tôi dự tính sẽ tìm trẻ em hỏi thăm hơn là hỏi thăm người lớn, nếu phải hỏi người lớn thì sẽ nhìn theo người mà hỏi chứ không phải bạ ai hỏi đó thì đôi khi nguy hiểm lắm ... Dặn tới đâu chị K cứ luôn miệng dạ dạ tới đó.

Chúng tôi nhắm hướng đèn xe ban nãy mà đi. Nhờ trời sáng, bước chân trên những bờ đê dễ dàng hơn trước nhiều. Quả nhiên đi khoảng 15 phút thì chúng tôi gặp một con đường đất lớn cắt ngang phía trước. Không một bóng người trên đường, ngay cả dáng một căn nhà cũng không thấy, chung quanh vẫn toàn là đồng ruộng. Tôi bảo chị K cứ đi đại theo một hướng. Thế là chúng tôi đặt hai đứa bé xuống, nắm tay dẫn chúng đi, ai thấy cũng có thể nghĩ là hai vợ chồng đang dẫn hai con đi ... Được một lúc, thấy phía trước có một chiếc xe bò từ xa đang lọc cọc đi tới, tôi bảo chị K với hai đứa bé ngồi xuống ngay bên đường, để người đánh xe bò không thể biết là chúng tôi đang đi bộ về hướng nào.

Khi chiếc xe bò đi tới, tôi thấy người đánh xe là một cậu thiếu niên khoảng độ 14, 15 tuổi. Tôi vội chận cậu ta lại và hỏi :
- Em ơi cho hỏi thăm đường đi ra bến xe đò Kiên Giang còn cách bao xa.

Cậu bé nhìn tôi thoáng vẻ ngạc nhiên, trả lời :
- Còn xa lắm, chú phải đón xe lôi mới ra bến xe tỉnh được – Cậu cầm cây roi đánh xe quơ quơ về phía trước mặt - Đi tới ngã ba phía trước mới có xe lôi đi tỉnh.

Tôi nhủ thầm trong bụng may quá, nếu như không gặp cậu bé này thì chúng tôi đi ngược đường rồi. Tôi hỏi cậu còn bao xa nữa mới tới chỗ đón xe lôi. Cậu nói :
- Hông có xa lắm đâu, chú thím muốn đi thì nhảy lên đàng sau, tui cho « có giang ». Tui cũng đi ra phía đó nè.

Tôi nghĩ nhanh trong đầu, như vầy là tốt quá rồi, ngồi trên xe bò ít bị chú ý hơn cứ lơn tơn đi bộ. Tôi cám ơn cậu và ra dấu cho chị K bồng hai đứa bé nhảy lên ngồi phía sau. Tôi ngồi xích lên sát sau lưng cậu rồi gợi chuyện để hỏi thêm tin tức :

- Em đi đâu mà mới sáng sớm đã đi rồi vậy ?
- Ba tui mắc đi dzô trong dzàm, kiu tui đánh xe lên nhà ông « quoại » chở tràm dzìa bán. Chú thím ở thành phố xuống hả ? ?
- Không phải, tụi tôi ở Cần Thơ về đây ăn Tết hổm rày với bà con, bữa nay trở lại Cần thơ. Sáng sớm không muốn làm phiền bà con nên tụi tôi hỏi thăm đường ra bến xe tỉnh đón xe đi về cũng được.
- Chú thím quen dzới ai ở đây dzậy ? ?

Tôi trả lời cho qua :
- Quen bà con bên vợ ở tuốt trong đồng xa lắm.

Một ý nghĩ khác chợt loé ra trong đầu, tôi hỏi cậu liền :

- À em ơi, em biết có xe nào đi về kinh 5 hay không ? Không chừng tôi ghé kinh 5 thăm một người bà con khác rồi trưa trưa đi về Cần Thơ cũng được.
- Kinh 5 hả ? Có chứ ! Thiếu gì. Một chút chú thím đứng đón xe, hỏi xe nào đi kinh 5 thì lên đi.
- Bến xe lôi gần đây không ?
- Cũng hơi xa, mà chú thím hông cần phải ra bến xe lôi làm chi cho mắc công, đứng chỗ ngã ba đón cũng được rồi. Xe không qua lại đón khách dọc đường thiếu gì.

Như vậy là tôi yên tâm rồi. Qua tin tức của cậu bé đánh xe bò, tôi bỗng đổi ý, không muốn ra bến xe Rạch Giá đón xe về Sài Gòn nữa, sau vụ « bể » hồi khuya, chắc chắn là sáng nay đám công an biên phòng tung ra đầy hết mấy bến xe để đón bắt những người tình nghi, nên ra bến xe lúc này nguy hiểm lắm. Ngược lại nếu có xe lôi từ đây đi tới kinh 5, chúng tôi sẽ đi tới kinh 5 tránh khu vực nguy hiểm này càng xa càng tốt, mặt khác đường đi kinh 5 cũng cùng một con đường về Sài Gòn, những chuyến xe đò đi về Sài Gòn đều phải đi qua con đường này, chúng tôi sẽ đứng dọc đường đón xe về Sài Gòn an toàn hơn và cuối cùng nếu lỡ xẩy ra việc gì thì ít ra tôi cũng còn quen biết với B người thanh niên cùng đi với tôi chuyến vượt biên trước tại kinh 5 mà ghé vào nhờ vả được.

Qua mấy câu dò hỏi khéo léo cậu bé cho tôi biết địa phương này thuộc Xã Rạch Sỏi, Huyện Châu Thành, Tỉnh Kiên Giang. Té ra chỗ này cách trại tù vượt biên Cầu Ván nơi cha con tôi bị nhốt sau chuyến thất bại lần trước đâu có bao xa ... Tôi nói chuyện đưa đẩy với cậu bé đánh xe bò một hồi nữa thì xe ra tới đường tráng nhựa ngang trước mặt. Đây là ngã ba mà cậu ta nói, xem ra cậu hoàn toàn không nghi ngờ gì hết. Chúng tôi cám ơn cậu và xuống ngay tại đầu ngã ba. Trước khi băng ngang đường đi về phía trái con đường nhựa, cậu còn chỉ tay về phía phải ra dấu chúng tôi sẽ đi về hướng đó, dặn chúng tôi cứ đứng ngay đây, thế nào cũng có xe lôi đi tới và nhớ hỏi cho đúng xe đi kinh 5 ...

Trời sáng bửng rồi, ít nhất cũng đã 6 giờ sáng chứ không sớm sủa gì nữa đâu. Trên đường giờ này, thỉnh thoảng có một hai chiếc xe qua lại, không ai để ý tới chúng tôi cả. Trong khi chờ xe lôi, tôi nói cho chị K biết ý định đổi hướng đi kinh 5 của tôi, chị cũng cho đó là cách hay và an toàn hơn. Hai đứa bé hình như cũng tỉnh táo hẳn nên ngồi xổm trên đường nghịch mấy hòn đá với nhau. Thấy chúng nó chơi nghịch như vậy chúng tôi cũng an tâm. Đứng chờ hồi lâu, đã có mấy chiếc xe lôi đi tới nhưng đều đã có khách. Chờ mãi rốt cuộc cũng gặp đúng một chiếc xe trống chịu đi kinh 5, sau khi ngã giá xong xuôi, chúng tôi lên xe. Đây là một loại xe cải tiến làm phương tiện sinh sống ở miền Tây rất thông dụng, người ta dùng những chiếc xe Honda, Suzuki, Kawasaki hoặc những xe gắn máy đời cũ hơn ... kéo một cái rờ mọc đàng sau đi chở khách hoặc hàng hoá như một phương tiện làm ăn hàng ngày ... và có thể tháo gỡ cái rờ mọc ra dễ dàng để trở thành một chiếc xe gắn máy bình thường trở lại. Những người nghèo hơn thì dùng xe đạp kéo rờ mọc để làm xe đạp lôi ... nhưng hiện thời chiếc xe lôi này lại đang dùng để chở chúng tôi xa lánh nơi nguy hiểm, một loại xe dùng để cứu nguy cho chúng tôi trong hoàn cảnh nguy khốn. Tôi thầm cám ơn ai đó đã nghĩ ra phương tiện di chuyển hay ho này ! ! !

Xe chạy cũng khoảng hơn nữa tiếng thì tới kinh 5. Tôi nói người lái xe cho chúng tôi xuống ở gần một quán nhỏ chưng bày trái cây, bánh trái bán cho xe đò ở ven đường. Bước xuống xe mà lòng tôi cảm thấy nhẹ nhỏm rất nhiều. Cái cảm giác lo âu nặng trĩu từ hồi khuya tới giờ hình như không còn nữa mặc dù chúng tôi còn phải vất vả lắm mới về tới thành phố. Chúng tôi ghé vào quán mua mấy cái bánh và nước cam đựng trong mấy bọc nylon cho hai đứa bé rồi ra ngoài đường đứng đón xe về Sài Gòn. Đang đứng ngóng xe đò đi tới thì bỗng có một xe vận tải ngừng lại, người lơ xe nhảy xuống hỏi chúng tôi muốn đi thành phố không anh lấy giá rẻ hơn xe đò. Chiếc xe này chở gạo về thành phố.

Sau khi đồng ý giá cả xong xuôi, anh lơ xe mở bửng sau nhảy lên trước vào tuốt bên trong chất lại mấy bao gạo làm thành một lỗ trống lớn cho chúng tôi, anh vừa cười vừa nói :
- Thời buổi này xe tải chở hàng, không đón khách thêm dọc đường thì không có tiền uống cà phê.

Sau khi sửa soạn xong, anh bảo chúng tôi leo vào bên trong. Hoá ra đi chiếc xe vận tải chở gạo này chúng tôi lại thích hơn xe đò, vì có thể nằm ngả người thoải mái trên mấy bao gạo, không chật chội như xe đò, giá lại rẻ và không bị ai chú ý ... Ở phía sau đứng nhìn cũng không thể thấy chúng tôi được vì bị gạo phía ngoài che khuất, anh lơ xe mở một cửa sổ nhỏ trên góc tay phải bên trong, giáp với phía trước xe để thoáng gió và có ánh sáng lọt vào cho chúng tôi, anh dặn khi nào gần đến trạm kiểm soát thì anh sẽ báo cho tôi hay để tôi đóng cửa sổ đó lại thì dù bên ngoài có ai leo lên cũng không thể nhìn vào được, bao giờ xe chạy thì mở ra lại.

Được ngả người lên mấy bao gạo, chúng tôi cảm thấy khoan khoái vô cùng, hai đứa bé ăn uống xong xuôi, chơi giỡn một lúc rồi ngủ. Chị K cũng không còn lo sợ nữa. Chúng tôi lúc này mới có cơ hội nói chuyện hỏi thăm lẫn nhau một cách thoải mái, chứ cả ngày hôm qua từ lúc gặp hai mẹ con chị ở Xa Cảng Miền Tây đến giờ, đâu có cơ hội nói chuyện nhiều. Chị kể gia đình chị ở Biên Hoà có tiệm chuyên môn khâu hạt cườm, trang hoàng lên áo cưới và vương miện cho các cô dâu. Gia đình chị làm nghề này từ trước năm 1975 cũng rất khá, nhưng sau 75 gần như đứng lại. Một mặt vì đa số cô dâu chú rễ không dám chi phí nhiều, hoặc không có nhiều tiền để chi phí cho các áo cưới cô dâu rình rang trong các đám cưới như thời trước, mặt khác nguyên liệu cườm từ nước ngoài không còn nhập vào dễ dàng như trước đây nữa. Chồng của chị là giáo sư dạy Trung Học đệ nhị cấp, sau 75 vẫn còn dạy nhưng lương bổng thì đâu có gì đáng kể, ngoài mấy phần nhu yếu phẩm hàng tháng ... cho nên gia đình chị mới quyết định để chồng chị đi trước năm 1979 và may mắn đến được Mã Lai, sau đó được chính phủ Úc chấp nhận định cư ... được tin đó nên mẹ con chị mới tính đường vượt biên theo để mong đoàn tụ với chồng ... nhưng rốt cuộc lại thất bại, không biết ngày mai rồi sẽ ra sao ?

Tôi cũng kể về gia cảnh của tôi cho chị nghe, cả hai đều cảm khái vô cùng. Chúng tôi đúng là hai mảnh đời riêng biệt. Hoàn cảnh và tâm sự của hai người tuy có khác nhau, nhưng ngẫm lại thì rất gần gũi và giống nhau vì đều là nạn nhân của thời cuộc cả ... Số phần đưa đẩy hai mẹ con của chị phải đánh liều hết tất cả để mong có được một cuộc sống tự do, đoàn tụ cùng chồng ... Còn cha con tôi có khác gì đâu ! Hai cha con tôi cũng phải bỏ hết người thân, lao vào những hiểm nguy, đối diện với chết chóc, tù đày ... như lần vượt biên trước ... Rồi lần này lại trốn chui, trốn nhủi, ôm lấy thất bại trở về, không biết những khó khăn ở địa phương, khó khăn kinh kế sắp tới sẽ ra sao nữa ? ? Mà ngay cả nếu cha con tôi may mắn đi thoát được, thì vợ và con gái tôi cũng sẽ lâm vào trường hợp y như mẹ con chị K thế thôi ... Hỡi ơi ! ! Làm sao biết hết có bao nhiêu gia đình giống như gia đình của chị K và của tôi ở đất nước này ? Tự nhiên qua câu chuyện trao đổi, dù chỉ tình cờ gặp trong hai ngày ngắn ngủi vừa qua, nhưng hình như chúng tôi có một sự cảm thông thật sự với nhau như là đã quen biết từ lâu lắm rồi.

Đang suy nghĩ miên man thì xe tới bắc Vàm Cống, trong khi xe xếp hàng chờ qua phà. Chúng tôi đánh thức hai đứa trẽ dậy vào quán cơm rửa mặt ăn uống ... sau đó định đi bộ xuống phà trước, bỗng tôi thấy một cậu thanh niên cùng đám vượt biên với chúng tôi đêm qua, đang ngồi trong một quán ăn gần đó. Lúc còn trên căn gác gỗ, cậu ta ngồi phía trong nên tôi không có dịp nói chuyện câu nào, nhưng tôi nhớ mặt cậu rõ lắm ... Tôi nói chị K xem chừng dùm con trai tôi rồi bước vào quán ngồi xuống cạnh cậu ta.

Đang ăn, cậu bỗng giật mình khi có người xà xuống ngồi cạnh mình, nhưng khi nhận ra tôi cậu tỏ vẻ mừng rỡ lắm. Chúng tôi cẩn thận nhìn chung quanh để chắc chắn là không có ai chú ý, rồi hỏi thăm nhau về chuyện đêm qua. Tôi vắn tắt kể chuyện của chúng tôi trước ... sau đó cậu kể cho tôi nghe chuyện đêm qua như sau :

- Khuya đêm qua, sau khi nghe súng nổ và tiếng quát tháo trên sông ... tụi em biết là chuyện bị đổ bể rồi nhưng vì không biết rành địa thế nên bàn với nhau quyết định núp lại chờ chú Hai đến hướng dẫn đường ra ... chờ hoài đến gần sáng cũng không thấy chú trở lại, mọi người đành phải đánh liều tìm hướng đi ra đường cái để đón xe về. Lúc bấy giờ ai nấy đều hoảng hốt và mặc dù cố giữ im lặng nhưng không còn trật tự như trước nữa, mạnh ai nấy bươn đi cho lẹ, không ai nhường ai ... Lầm lủi đi trong những vườn cây ăn trái được một lúc lâu thì bị lạc vào khu dân cư nào đó không biết. Ôi thôi ! chó sủa rùm trời hết. Lại nghe có tiếng người trong nhà hỏi lớn :
- Ai làm gì bên ngoài giờ này vậy ? ? Ai đó. Sao không lên tiếng ? ? Bộ tính ăn trộm hả ?

Mọi người nhốn nháo hẳn lên, thụt lui trở lại nhưng lúc đó gần sáng rồi, chắc đã có nhiều người thức dậy, họ không biết tụi em là ai nên la lớn lên :
- Có ăn trộm ... Bớ người ta có ăn trộm.

Thế là mọi người ù té chạy bán sống bán chết, hình như đàng sau có tiếng người đuổi theo. Em đi có một mình nên cứ cắm đầu cắm cổ chạy thục mạng, bất kể phương hướng. Lúc đó ở phía sau, nghe có nhiều tiếng la hét nổi lên, rồi có tiếng con nít khóc lóc nữa, em nghĩ hình như cô chú gì dẫn theo đứa con gái nhỏ bị bắt lại rồi ? ? Em không dám quay lại, cứ bươn bã chạy như vậy một hồi lâu cũng ra được một cánh đồng trống. Em băng ngang đồng chạy luôn mà không thấy đường lộ gì hết. Cuối cùng gặp một con sông nhỏ trước mặt. Mệt và khát nước muốn chết, em uống đại nước sông cho đỡ khát, nghỉ mệt một chút rồi cứ dọc theo bờ sông mà đi. Được một hồi thì thấy có người đàn bà trên chiếc thuyền nhỏ đang neo sát bờ sông, em đánh liều hỏi đường và cho tiền bà ta để chèo cho em ra chỗ đón xe đò về thành phố. Bà ta đưa em đến một bến đò nhỏ, rồi chỉ đường cho em ra đường cái đón xe. Xe đò chở em cũng mới vừa đến bắc Vàm Cống này không lâu ... Đại khái câu chuyện là như vậy.

Tôi nghe cậu ta kể mà cảm thấy mừng vì mình đã quyết định bỏ đi trước ngay sau khi chuyện vượt biên bị đổ bể, nếu còn ở lại chung cả đám thì chắc tôi và chị K cùng hai đứa nhỏ bị bắt luôn rồi quá. Sau đó tôi chúc cậu may mắn rồi trở ra cùng xuống phà với chị K và hai đứa nhỏ ... Chị K nghe tôi kể lại câu chuyện của cậu thanh niên mà không khỏi hết hồn. Quả đúng là chúng tôi cũng còn may mắn hơn những người kia, không biết có bao nhiêu người bị bắt và không biết họ sẽ ra sao ? ?

Sau khi qua bắc Vàm Cống, trên đường về thành phố, xe tải phải qua nhiều trạm kiểm soát, một vài nơi phải chờ đợi thật lâu công an mới cho đi. Rốt cuộc sau khi chờ qua được bắc Mỹ Thuận, xe chạy về đến ngã ba Trung Lương thì đã hơn 6 giờ tối rồi. Xe vận tải chở hàng hoá bị cấm vào thành phố ban đêm, nên tài xế phải tắp vào nghỉ ngơi tại ngã ba Trung Lương chờ sáng sớm mới đi tiếp ! ! ! Đúng là về gần đến nơi rồi mà vẫn còn phải chịu lận đận thêm một đêm nữa !

Thôi thì đành phải vậy cứ biết sao hơn, dầu gì thì đến đây cũng an toàn rồi. Tôi mua chút gì cho con ăn uống xong, bồng nó lên lại xe tải dỗ nó ngủ, còn tôi không thể nào ngủ được, cứ nghĩ ngợi về số phận của mình mà thấy chán chường quá. Đi vượt biên thất bại trở về, ngày mai gặp vợ và con gái, không biết đó là điều nên buồn hay nên vui đây. Lại nghĩ miên man tới số phận của biết bao nhiêu người đồng cảnh ngộ như mẹ con của chị K và nhớ tới hai vợ chồng có đứa con gái nhỏ 6,7 tuổi ngồi trong góc trên căn gác gỗ đêm qua, theo lời kể của cậu thanh niên kia thì có thể đã bị bắt rồi ! ! ! Tội nghiệp quá, không biết họ có sao không ? ? Càng nghĩ càng thấy buồn, tôi gởi con cho chị K trông chừng dùm rồi leo xuống xe cho khuây khoả. Thấy mấy quán dọc theo ngã ba Trung Lương buôn bán suốt đêm cho các xe đò xe tải, tôi vào gọi xị rượu thuốc ngồi nhâm nhi một mình mà lòng buồn vô hạn. Suốt đời tôi sẽ nhớ mãi hình ảnh đêm hôm đó ; hình ảnh của chính tôi ; một gã bất đắc chí, thất cơ lỡ vận ngồi gậm nhấm nỗi buồn một mình bên xị rượu thuốc rẻ tiền trong một quán nhỏ ven đường ở ngã ba Trung Lương. Đêm đó là đêm mồng 7 Tết năm Tân Dậu 1981.

Khoảng hơn 4 giờ sáng, xe bắt đầu chạy lại và về đến thành phố khoảng gần 6 giờ sáng. Chúng tôi xuống xe chia tay với mẹ con chị K ngay trên đường Hùng Vương, Chợ Lớn. Tôi chúc mẹ con chị gặp nhiều may mắn và sớm được đoàn tụ với chồng, dù biết rằng lời chúc của mình nghe có vẻ như một lời an ủi hơn là một lời chúc thật sự ! ! Kể từ đó tôi không gặp mẹ con chị lần nào nữa. Còn cha con tôi về đến nhà, vợ chồng con cái ôm nhau bàng hoàng hoài. Có lẽ Trời Phật không muốn phân ly gia đình chúng tôi nên không cho cha con chúng tôi đi được. Điều này còn chứng minh nhiều lần nữa trong những chuyến đi sau này.
 
Chuyến Vượt Biên Thứ Ba

(Phố Đá Tròn, C/N 2011/08)
Tháng 03/1981 tôi lại có cơ hội thử một chuyến vượt biên nữa. Lần này, một người trong đám tổ chức cũ trong chuyến đi thứ nhất đứng ra tổ chức. Người này tôi hay gọi là Ông Ba P cũng chính là người tôi đã nhờ dẫn dùm con trai tôi về trước, khi chúng tôi bị kẹt ở trại giam Cầu Ván, Rạch Sỏi. Ông Ba P ở gần nhà và biết gia đình chúng tôi rất rõ. Đổi lại cho việc được tham gia không tốn tiền, ông nhờ tôi một số việc như mua hải bàn, hải đồ, thước đo toạ độ và sẽ là hoa tiêu điều khiển chiếc ghe sau khi lên cá lớn. Trong chuyến đi này có Thành, người bạn thân cùng xóm từ lúc nhỏ tháp tùng đi nữa.

Hôm khởi hành, Thành và hai cha con tôi hẹn nhau ra bến xe Xa Cảng Miền Tây và đón chuyến xe sớm nhất đi Rạch Sỏi. Đến nơi thì cũng đã 2 giờ chiều hơn. Đã được dặn dò từ trước, Thành và hai cha con tôi đi ngay vào một quán sinh tố gần bên đường, nơi đã có một người dẫn đường ngồi chờ từ lâu. Chúng tôi gọi nước uống và kín đáo trao đổi với người dẫn đường vài ám hiệu nhận nhau. Được một lúc đợi khi người dẫn đường đi ra thì chúng tôi cũng trả tiền rồi lẽo đẽo theo sau. Người đàn ông dẫn chúng tôi đi bộ một khoảng khá xa đến một toà nhà, hình như là trụ sở Giáo Dục của Xã. Phía sau là một dãy nhà cho các giáo viên ở xa cư trú. Thấy người đó lầm lủi đi vào trong dãy nhà đó, chúng tôi cũng đi vào theo.

Khi vào đến nơi chúng tôi thấy ông Ba P và hai ba người trong đám tổ chức đang nói chuyện, bàn bạc gì đó với nhau. Chúng tôi được sắp xếp giao cho một người đàn ông địa phương khoảng trên 50 tuổi tên Tịnh là người coi về việc mấy ghe nhỏ Taxi. Ông này dẫn chúng tôi đi ngược ra hướng chợ Rạch Sỏi và xuống ngay bến đò sát ngay chợ, nơi có con trai ông ta đang đậu ghe chờ ở đó. Ông ta ra dấu cho chúng tôi đi xuống ghe và người con của ông đã biết từ trước nên cũng không hỏi han gì tới chúng tôi, cứ thế chống dầm tách ra khỏi bến đò.

Chợ chiều lúc đó cũng đã sắp tàn, chỉ lèo tèo dăm ba người đi chợ muộn tìm mua chút thức ăn rồi vội vả về lo bữa cơm chiều. Trên bến đò cũng vắng teo, chỉ còn vài ba chiếc ghe của bạn hàng neo tại bến. Không ai chú ý tới chúng tôi cả. Thành ngồi ở phía trước chèo mũi phụ, hai cha con tôi ngồi ngay giữa khoang ghe và con trai ông Tịnh ; khoảng 17, 18 tuổi tên Bằng ; ngồi chèo lái ở phía sau. Theo như kế hoạch, chúng tôi sẽ ra điểm hẹn ngay cửa biển, từ đây con « cá lớn » sẽ đến « bốc hàng » đi luôn.

Lúc bấy giờ ít nhất cũng gần 4 giờ chiều rồi. Từ bến đò Rạch Sỏi chúng tôi lầm lủi đi qua những kinh rạch vắng vẻ. Trong chuyến đi lần này, tôi được biết tin khá trễ cho nên sự chuẩn bị không được chu đáo như hai lần trước. Riêng phần con trai tôi gặp trở ngại với nhà trường. Hai lần trước chúng tôi đã tìm cớ xin với nhà trường cho con tôi tạm nghỉ học vì có chuyện gấp trong gia đình phải về quê ... Sau chuyến đi thứ nhất con tôi về đi học lại đã hơi gặp khó khắn vì nghỉ lâu quá, nhưng sau đó mọi chuyện cũng không có gì. Đến lần thứ hai, chúng tôi cũng đã tìm cách nói dối cho con trai tôi được nghỉ học mà không bị gì hết. Nhưng lần này khi tôi lên xin cho con trai tôi nghỉ học lần nữa, cô giáo chủ nhiệm đã mời tôi vào văn phòng và cho tôi biết là nó nghỉ nhiều quá rồi, nếu tiếp tục nghỉ nữa nó phải bị ở lại lớp. Tôi đã cố năn nỉ và nguỵ tạo ra một trường hợp chẳng đặng đừng, đồng thời hứa với cô giáo là chúng tôi sẽ kèm nó học để bắt kịp với các bạn cùng lớp. Cuối cùng cô Giáo Chủ Nhiệm đồng ý nhưng với điều kiện sau khi đi học lại nếu thấy con tôi không theo kịp được chương trình thì nó phải bị ở lại lớp. Con trai tôi sau đó khóc lóc không chịu đi vì nó sợ bị ở lại lớp. Vợ chồng tôi phải dỗ dành nó nhiều lần nó mới miễn cưỡng đồng ý. Tuy thế trong lòng vợ chồng tôi cũng lo lắng lắm, cầu xin cho đi chuyến này trót lọt êm xuôi chứ nếu thất bại trở về nữa thì việc học của con sẽ bị trở ngại và rủi mà nó bị ở lại lớp thì ân hận biết chừng nào !

Tôi ôm con ngồi giữa khoang ghe mà lòng cứ miên man nghĩ ngợi đâu đâu. Thằng con tôi chỉ còn hơn một tháng nữa là đúng 6 tuổi rồi ! Phải nói là nó rất ngoan, qua mấy chuyến vượt biên hình như trong đầu óc non trẻ của nó cũng ý thức được sự việc nguy hiểm quan trọng nên chẳng bao giờ nó khóc lóc hoặc quấy, đòi hỏi gì cả. Nó cứ im thin thít và bảo gì thì cứ ríu ríu làm theo, ngay cả khi hai cha con trong vòng nguy hiểm hoặc trong cảnh tù đày như hai lần vượt biên trước. Lòng tôi buồn vô cùng khi nghĩ tới điều này. Ôi đất nước tôi có biết bao nhiêu trẻ thơ ở vào trường hợp như con tôi ! Nếu ở lại thì tương lai sẽ đi về đâu, nhiều lắm là nó leo lên hết bậc Trung Học, còn chuyện Đại Học chắc khó lòng mà leo lên nổi. Với lý lịch « Nguỵ » của ông Nội và Ba nó, coi bộ nó sẽ khó có cơ hội học tới nơi tới chốn. Bằng chứng là các em tôi đã gặp khó khăn trong vấn đề này rồi. Không phải bỗng dưng mà mọi người đổ xô làm một cuộc di tãn vĩ đại năm 1954 và một con số khổng lồ bỏ trốn đi vượt biên sau năm 1975 như vậy. Lịch sử sẽ phê phán điều này và thế hệ sau sẽ nhìn lại điều này với sự nhận xét rõ ràng hơn. Còn bây giờ, thế hệ của chúng tôi chỉ là những chứng nhân của thời đại. Thế hệ của tôi có thể chủ quan trong nhận xét của mình, nhưng lịch sử sau này thì không.

Đang miên man chìm trong dòng suy tư thì anh chàng chèo ghe tên Bằng lên tiếng :
- Mình đi thêm một chút nữa rồi tấp vào ngả ba ăn uống nghỉ ngơi đợi tối tối một chút rồi hãy chèo ra sông Cái.

Ghe chúng tôi đi thêm khoảng nửa tiếng nữa thì trước mặt là một ngả ba trổ ra sông Cái. Trời đã bắt đầu chạng vạng tối. Chúng tôi tấp vào một bãi ô rô lớn nghỉ ngơi ăn uống chút đỉnh. Khoảng 1830 giờ chiều, ghe lại tiếp tục đi khi mắt chúng tôi không còn thấy rõ trên mặt sông nữa. Từ đây ra đến điểm núp chờ khuya nay ráp với « cá lớn » còn một đoạn dài nữa, theo như Bằng cho biết thì chúng tôi sẽ phải đi qua 2 trạm kiểm soát, trước khi ra được đến nơi. Hai trạm kiểm soát này trên danh nghĩa là thu mua, đóng thuế nông, ngư sản ... nhưng ngay kế bên đó là trạm công an biên phòng kiểm soát người vượt biên. Nhờ bóng tối che chỡ, ghe chúng tôi cứ thế đi êm ru trên sông Cái. Tôi không biết đâu là đâu, chỉ thỉnh thoảng ghe chúng tôi đi ngang qua những khúc sông có nghe vọng lại ở phía xa xa trên bờ những âm thanh của radio hoặc tiếng nhạc vẳng lại và có tiếng người loáng thoáng nói chuyện. Giờ này trên sông vắng hoe. Lâu lâu mới thấy ở phía giữa sông có những chiếc ghe bầu chỡ lúa gạo hoặc hàng hoá nặng nề lướt qua, để lại những lượn sóng lan ra tới tận chỗ chúng tôi, vỗ vào lườn ghe khiến chiếc ghe lắc lư nhẹ theo nhịp sóng. Cứ thế ghe lầm lủi đi và khoảng 9 giờ tối thì chúng tôi đến điểm núp an toàn. Nơi đây chúng tôi đã thấy biển phía trước mặt xa xa, gió biển thổi vào nghe mát lạnh làm chúng tôi thấy tỉnh táo hẳn.

Bằng lủi mũi ghe vào một con rạch nhỏ trên đoạn sông Cái, nấp dưới những tàng lá ô rô lớn. Chúng tôi chia nhau thuốc chống muỗi thoa khắp người. Tôi đánh thức con tôi đang ngủ gà ngủ gật dậy, ép nó ăn chút bánh mì mua sẵn từ trước, rồi thoa thuốc chống muỗi lên khắp người nó. Sau đó tôi ôm con vào lòng, tay phe phẩy chiếc mũ lưỡi trai xua đuổi muỗi. Thành từ phía trước mũi ghe, chắc cũng buồn tình nên bò lại giữa khoang ngồi thì thầm với tôi :
- ĐM muỗi quá. Tao bị nó cắn, khó chịu quá !

Tôi đưa bình thuốc chống muỗi cho Thành :

- Còn đây nè. Mày xức thêm đi. Tao cũng bị vậy, chứ có khá gì hơn đâu.
- Thằng S ngủ chưa ? Mình người lớn đây mà chịu không nổi, thấy nó tội nghiệp quá.

Tôi trả lời Thành :
- Còn thức. Nó mới ăn xong. Mày cũng ráng ngủ một chút đi. Còn lâu lắm.

Thành xoay người, lấy cái xắc tay kê trên miếng ván bắc ngang chiếc ghe làm gối và ngả người nằm xuống. Phía đằng sau thằng Bằng chắc cũng đang ngủ gà ngủ gật. Tôi xoay người đổi một tư thế thoải mái hơn và tựa con trai tôi vào lòng, tay vẫn liên tục phe phẩy mũ lưỡi trai vừa đuổi muỗi, vừa dỗ nó ngủ trong khi tôi cũng cố lim dim. Chúng tôi yên lặng chờ đợi. Đâu đó trong đêm vắng, thỉnh thoảng có tiếng những con cá đớp mồi vang lên những âm thanh "chóc chóc" trên mặt nước, nghe buồn chi lạ.

Chúng tôi chờ quá 3 giờ sáng mà vẫn không thấy gì cả. Bằng cũng rất sột ruột. Tôi đặt nhẹ con tôi gối lên cái xắc tay rồi xoay ngược ra phía sau hỏi :

- Bằng. Bằng.Thức hay ngủ vậy ?
- Tui thức nảy giờ chứ đâu có ngủ nghê gì ?
- Sao chưa thấy gì hết vậy ?
- Tui cũng hỏng biết ? Ba tui nói khoảng 3 giờ sáng là « cá lớn » ra.
- Giờ này cũng hơn 3 giờ rồi, còn gì nữa ? –Tôi lo âu nói.

Thành ở phía trước cũng sốt ruột không kém, lòm còm bò sát đến giữa khoang nghe ngóng chúng tôi nói chuyện. Anh chàng coi bộ cũng không nhịn được nên xen vào :
- Giờ này mà không thấy gì hết ! Có khi điểm hẹn ở một chỗ khác còn mình nằm chờ trật chỗ rồi không ?

Bằng cãi :
- Hôm qua Ba tui đã đưa tui ra đây chỉ rõ ràng chỗ này, làm sao mà trật được ?

Tôi xen vào :
- Ráng chờ thêm một chút nữa xem.

Cả ba im lặng chờ mà trong bụng đứa nào đứa nấy như lửa đốt. Hơn 15 phút nữa trôi qua, vẫn không thấy gì cả ! Từ chổ núp chúng tôi đã bắt đầu thấy mờ mờ sáng ở phía xa xa chân trời phía ngoài cửa biển. Trời bắt đầu sáng rồi ! Lúc bấy giờ cũng gần 4 giờ sáng rồi. Ngoài biển trời sáng sớm lắm. Tôi không còn kiên nhẫn được nữa :
- Bằng. Bỏ đi về ngay đi. Trời sắp sáng rồi. « cá lớn » không ra nữa đâu. Chắc là có chuyện gì rồi. – Tôi hướng qua Thành – Mày ra lại trước mũi đi. Tao thấy không xong rồi.

Thằng Bằng còn lưỡng lự chưa biết tính thế nào ? Tôi hối nó :

- Bỏ đi ngay đi Bằng. Chắc chắn là « cá lớn » không ra đâu. Nếu « cá lớn » xuất hiện thì mình đã thấy rồi. Mình mà chần chờ, một chút trời sáng bét thì còn nguy nữa.
- Bây giờ mà chèo ghe vô, nguy hiểm lắm. Đi ngang mấy trạm thu mua, đóng thuế Nông Ngư Sản trời sáng thì thế nào cũng bị kêu dzô xét liền ! Bằng lo âu nói.
- Còn đường nào có thể tránh được mấy trạm xét đó không ?
- Có nhưng mà phải đi dzòng cả nữa ngày chứ đâu dễ đâu ? Mấy đường đó cũng đâu có chắc là không bị xét đâu ? Trời ơi ! Bây giờ không biết phải làm sao ?

Bằng còn cho biết thêm, nếu muốn tránh 2 trạm thu mua Nông Ngư Sản thì một là đi vòng ngược dọc theo cửa biển một đoạn xa rồi rẽ qua đường vào kinh thứ 11, đi bọc ngược về Rạch Sỏi. Nếu đi đường đó thì tới được bến đò Rạch Sỏi chắc cũng đã xế chiều. Còn nếu muốn đi tránh hai trạm xét này thì chỉ còn cách chèo ghe đi đến gần trạm xét thứ nhất tấp vào một chỗ, dấu ghe rồi băng đồng đi đường bộ ... nhưng với cách này thì cũng phải có ghe khác đi tiếp ở một đoạn sông rạch khác chứ cũng không thể đi bộ mãi được. Đúng là khi chèo ghe đi ra cửa biển hôm qua đã khó khăn, bây giờ đi vào coi bộ còn khó khăn hơn nhiều ! Với hai cha con tôi và Thành ngồi trên ghe như thế này, khi đi vào bị xét thì biết cách gì nói bây giờ ? Bên ngoài cửa biển, không có nhà cửa ai hết. Nói láo đi thăm bà con về cũng không được ! ! Trên người tôi và Thành lại không có giấy tờ gì hết. Nếu bị xét thì chắc chắn là bị bắt liền. Tôi hỏi Thành :

- Mày tính sao ? Tao nghĩ mình nên đi vòng qua ngả kinh thứ 11 cho an toàn, tuy có lâu, nhưng ít ra cũng an toàn hơn từ đây đi thẳng về ngả cũ phải qua hai trạm xét.
- Tao cũng nghĩ vậy. Thôi thì cứ quyết định đi vòng đi. Tới đâu hay tới đó. Bây giờ mình nên đi liền đi.

Ghe chúng tôi lủi ra khỏi chỗ núp, đi dọc theo mé cửa biển, ngược lên phía trên cứ thế mà đi miết. Trời mờ mờ sáng, lúc này chắc cũng 4 giờ sáng rồi. Đàng xa là biển, chúng tôi đã có thể ngữi thấy vị mặn và cảm nhận được không khí trong lành của biển. Tôi choàng thêm cho con một cái áo lấy từ trong xắc tay cho đỡ lạnh. Nhìn đứa con thân yêu đang ngủ trong lòng mà muốn ứa nước mắt. Tôi van vái thầm, cầu xin ơn trên Phật Trời che chỡ cho ghe chúng tôi đi trót lọt và không gặp bất cứ chuyện gì trên đường về. Lại một lần thất bại nữa và lần này nguy hiểm còn trùng trùng. Tôi không dám nghĩ nhiều, chỉ biết cầu nguyện liên tục. Nhìn Thành chèo mũi phía trước, tôi bỗng thấy cảm khái vô cùng. Nó đi vượt biên cũng thất bại mấy lần, cả hai vợ chồng và hai đứa con của nó cũng đã vào tù hết một lần trước đây. Lần này đi một mình, để vợ con ở nhà ... nhưng rồi cũng không xong ! Nhìn thấy nó vừa chèo mà đầu cứ chốc chốc quay sang phải, trái quan sát liên tục, tôi biết nó cũng đang lo âu lắm. Tôi và Thành là bạn thân cùng xóm từ lúc nhỏ. Má của nó và bà Dì tôi cũng là hai bà bạn rất thân. Nhớ hôm trước khi đi mấy ngày, Má của Thành còn kêu hai đứa đến dặn dò :
- Cầu xin hai anh em bây đi chuyến này thông suốt, nếu qua được bên đó, ở xứ người hai đứa phải đoàn kết giúp đỡ lẩn nhau nghe chưa ?

Bây giờ đây giữa sông nước mênh mông, hai thằng lủi trốn tìm đường an toàn trở về nhà. Nghĩ sao mà cảm khái quá. Tôi nói :

- Mày chèo có mệt thì nói để tao lên thế cho nghe.
- Không sao đâu.

Trời đã sáng bửng. Phía ngoài xa xa cửa biển tôi đã thấy những tia sáng của mặt trời dần dần lố dạng báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Ghe chúng tôi đi cũng khoảng hơn hai tiếng mới đến một con sông lớn, thằng Bằng bẽ mũi cho ghe quẹo trái vào con sông lớn này, sau đó băng ngang qua phía bên kia sông để đi dọc theo bờ phải đi ngược vào. Con sông này khá rộng, phải gần nữa tiếng ghe chúng tôi mới băng qua được tới bên kia. Chèo thêm được một lát, Bằng tắp vào một bụi ô rô núp nghỉ mệt. Mới sơ sơ chúng tôi đã đi gần 3 tiếng rồi mà vẫn chưa đâu là đâu cả ! Bằng cho biết từ chỗ này đi ngang qua kinh 11 cũng phải mất 3, 4 tiếng nữa chứ không ít. Con tôi đã thức dậy. Tội nghiệp thằng bé, nó hỏi :
- Ủa, sao mình còn ở trên ghe nhỏ hả Ba ? Con « cá lớn » đâu ?

Tôi cảm thấy chua chát qua câu hỏi của con thơ :

- Mình không đi nữa. Bây giờ đi về.
- Tại sao đi không đi nữa Ba ? Bộ « thua » nữa rồi hả ? Con tôi thắc mắc hỏi.

Tôi không khỏi ngạc nhiên khi con tôi dùng chữ « thua » ở đây một cách chính xác như thế. Té ra sau hai lần đi thất bại trước đây, những lúc chúng tôi nói chuyện với nhau, không ngờ nó nghe được rồi để ý đến những chữ mà chúng tôi hay dùng rồi sử dụng lại một cách chính xác như vậy. Tôi còn chưa hết ngạc nhiên và ngẫm nghĩ tìm cách nói cho con tôi an lòng thì nó lại phụng phệu nói :
- Con không biết đâu. Ba làm sao thì làm, khi về là phải để con đi học lại, chứ cô giáo không cho con đi học lại rồi con ở lại lớp thì con không chịu đâu.

Nói xong nó rấm rức khóc hoài. Lòng tôi đau như cắt khi nghe nó nói vậy, tôi phải cố gắng an ủi con và hứa với nó là tôi sẽ lên nói với cô giáo và nó sẽ đi học lại, không sao đâu. Lục tìm trong xắc tay, lấy ra mấy viên vitamin C cho nó ngậm thay kẹo và cứ thế dỗ dành nó. Ghe chúng tôi lại tiếp tục đi đến trưa thì ngang qua kinh 11. Đến đây thì tình hình có vẻ bớt căng thẳng. Chúng tôi qua một ngả ba sông khác, ghe cộ trên sông này qua lại rất nhiều không ai chú ý tới chúng tôi. Dọc hai bên sông nhà của dân cất sát ngay mé nước và nhiều người lợi dụng địa điểm này mở ra phía sau buôn bán lẻ những món cần thiết hàng ngày. Tôi bảo Bằng ghé lại một trong những quán ven sông đó mua chút bánh trái và nước uống cho mọi người rồi tiếp tục đi. Từ đoạn sông này về đến bến đò Rạch Sỏi chúng tôi không còn quá lo âu nữa, ghe cứ thế mà đi. Chúng tôi tắp ghe vào bến đò Rạch Sỏi thì cũng khoảng 3 giờ chiều rồi. Ngôi chợ nhỏ sát bến đò cũng đã thưa thớt người. Thành và hai cha con tôi cám ơn Bằng sau đó đi bộ trở về phía trụ sở cơ quan Xã ngày hôm qua để tìm ông Ba P rồi tính chứ tụi tôi cũng không biết phải đi đâu. Xe đò về Sài Gòn giờ này không còn nữa. Tôi bảo Thành kiếm ông Ba P rồi tìm chổ ngủ qua đêm, ngày mai sớm ra đón xe đò về lại Sài Gòn.

Vừa bước vào phía sau của dãy nhà dành cho các giáo viên ở xa trú ngụ, tôi đã thấy ông Ba P và hai người nữa đang bàn tán một chuyện gì có vẻ sôi nổi lắm. Thấy chúng tôi đi tới, ông vội hỏi :

- May quá ! Về được an toàn là tốt quá ! Tôi lo quá trời không biết mọi người có sao không ?
- Đánh đấm gì mà kỳ vậy chú P. Nằm đợi cả đêm không thấy gì cả ! Ghe lớn tại sao không ra ? Tôi bực bội hỏi.
- Đang chờ tin tức của thằng chủ ghe và tài công hồi sáng giờ mà không chưa thấy gì hết. Cũng đang rầu thúi ruột đây. Thôi đi vào trong cho khuất rồi nghỉ ngơi chút đi cái đã rồi tính sau.

Nói xong ông ta quay lại bàn cãi tiếp với hai người địa phương kia. Qua mấy câu tôi nghe loáng thoáng thì có vẻ như họ mất tin tức của chủ ghe và tài công từ chiều hôm qua. Thật tình mà nói, Thành và tôi bực tức trong bụng lắm, nhưng không biết phải làm sao ? Đây là dãy nhà phía sau của một cơ quan nào đó của Xã ; hình như là cơ quan Giáo Dục ; phía trước vẫn còn người lai rai vô ra làm việc. Chúng tôi đứng lớ ngớ ở chổ này không tiện chút nào, nên tôi kéo tay lôi Thành đi vào bên trong. Thành nói với tôi :
- Tao thấy không xong rồi. Tao không yên tâm ở lại chỗ này chút nào cả. Vụ này đã bể thì chỗ này không an toàn chút nào hết.

Tôi đồng ý với Thành, trong bụng cũng lo lắm, nhưng khổ nổi bây giờ không biết phải đi đâu ? Tôi cúi xuống nói mấy câu vỗ về an ủi và dặn thằng con trai :
- Con ở đây với chú Thành, Ba ra ngoài nói chuyện với ông P chút nghe.

Dặn Thành giữ dùm thằng con, tôi đi trở ra khuông viên cửa sau. Gặp ông Ba P tôi hỏi liền :

- Bây giờ mọi chuyện đã không xong rồi. Chú kiếm chỗ an toàn cho Thành và hai cha con tôi ngủ qua đêm, mai về lại Sài Gòn rồi tính. Chứ ở đây tụi tôi thấy không yên tâm chút nào hết.
- Ở đây là an toàn lắm rồi. Chủ dãy nhà này là người nằm trong tổ chức, chổ này chỉ có mấy giáo viên ở xa về dạy học trú ngụ, không ai chú ý tới chỗ này hết. Cứ yên tâm, không có gì phải lo. Đi vào bên trong kiếm giường trống nghỉ ngơi đi, một chút tôi vô liền. Tôi đã cho người mua thức ăn chiều về rồi. An tâm đi, không có sao đâu. Tôi còn phải ngóng tin của mấy người nữa. Còn 4, 5 người nữa chưa về tới. ĐM rầu thiệt.

Nói xong ông ta lại chạy ra phía ngoài ngóng chờ người đưa tin về, điệu bộ có vẻ nôn nóng lắm. Chẳng đặng đừng, tôi phải trở vào nói lại với Thành. Bên trong dãy nhà này gồm nhiều phòng nhỏ riêng biệt với nhau. Mỗi phòng có hai chiếc giường, nhiều phòng đã có người ở, nhưng cũng còn mấy phòng trống. Thành và hai cha con tôi vào một phòng trống ngồi trên giường, được một lúc, Thành quay qua nói với tôi :
- Tao không an tâm ở lại đây chút nào hết. Tao đề nghị đi ra bến xe đi Cần Thơ. Xe về Sài Gòn giờ này hết rồi, nhưng từ đây đi Cần Thơ thì gần, xe chắc còn nhiều. Ở Cần Thơ tao có nhà người quen. Đến Cần Thơ ở nhà người quen tao thấy an tâm hơn.

Thật ra trong bụng tôi cũng đâu muốn ở lại chỗ này, sau một lần "đánh" bị bể, chắc chắn là nhiều nguy hiểm lắm. Lý do con « cá lớn » tại sao không ra điểm hẹn bây giờ còn chưa biết ? Có thể nó đã bị "thua non" dọc đường, hoặc đã bỏ đi luôn mà không rước khách như đã dự trù cũng không biết chừng. Nhưng khổ nổi tôi không biết phải đi đâu giờ này, vì chiều quá rồi. Nay nghe Thành đề nghị vậy tôi hưởng ứng liền :
- Vậy hả ? Sao nảy giờ mày không nói. Tao đâu muốn ở lại đây đâu. Vậy thì mình đi lẹ cho rồi. Ở đây giây phút nào, thấy không an lòng giây phút đó.

Thế là Thành và hai cha con tôi lại dắt díu nhau đi trở ra, lần này không thấy ông Ba P và hai người hồi nảy ở đâu nữa ? Chúng tôi cũng không cần thiết phải gặp ông ta, giờ này chỉ lo phần chúng tôi sao cho an toàn thôi ... Lúc bấy giờ cũng khoảng 4 giờ chiều rồi. Chúng tôi không còn chần chừ được nữa. Đón 2 chiếc Honda ôm đi ngay ra bến xe. Quả nhiên, xe đò đi Cần Thơ giờ đó vẫn còn. Chuyến sắp chạy còn trống nhiều chổ lắm. Chúng tôi mua được hai vé chính thức dễ dàng nhảy lên chọn dãy trống phía sau ngồi cho thoải mái. Xe lăn bánh ra khỏi địa phận Rạch Sỏi, chúng tôi mới thở phào nhẹ nhỏm. Tôi hỏi Thành :

- Mày quen ai ở Cần Thơ vậy. Có thân không ? Đến Cần Thơ chắc cũng nữa đêm rồi, tự nhiên dẫn vào nhà người ta lủ khủ thế này, mày thấy có ổn không ?
- Không sao đâu. Gia đình nhà này chịu ơn của bà già tao nhiều lắm. Biết chổ an toàn tao mới dám tới chứ đâu có ẩu được mậy ?

Thành nói xong thì nhắm mắt lim dim ngủ. Chắc nó quá đừ sau một đêm thức trắng và cả ngày chèo ghe phụ với Bằng. Tôi cũng không hỏi gì thêm, băng ghế sau còn trống nhiều chổ nên tôi đặt thằng con nằm dài trên băng sau dỗ nó ngủ, rồi cũng nhắm mắt ngủ gà ngủ gật. Thật tình mà nói, sau một đêm và một ngày đầy căng thẳng tôi cũng cảm thấy quá mệt !

Đến khoảng hơn 9 giờ tối thì xe đổ bến Cần Thơ. Thành đón một chiếc xe lôi và hướng dẫn xe lôi chạy tới địa chỉ nó muốn. Đây là một nhà thuộc dạng biệt thự. Bên ngoài có vách tường bao bọc chung quanh coi bộ bề thế lắm. Tôi nhủ thầm trong bụng :
- Thời buổi này ai mà còn ở được một căn nhà như vầy là ngon quá rồi còn gì.

Thành bấm chuông, một lúc sau có một người đàn bà ra mở cổng. Thành đứng bên ngoài xưng tên, tự giới thiệu nó kèm với tên của Má nó để người đàn bà nhận ra được. Quả nhiên, khi nghe đến tên của Thành và Má của nó, người đàn bà từ bên trong nhận ra ngay, thái độ vồn vả hẳn lên, bà ta lật đật mở cổng :

- Trời đất ! Cậu Ba đi đâu mà tới đây tối dzầy nè ?
- Tụi con đi chơi nhà bạn ở Rạch Giá, Kiên Giang, định về luôn Sài Gòn, nhưng ra bến xe trễ quá. Xe về Sài Gòn không còn chuyến nào nữa hết, kẹt quá phải đón xe Cần Thơ, ghé đây ngủ nhờ một đêm, mai tụi con đi sớm về Sài Gòn.
- Dzậy hả ! Thôi dzô nhà lẹ lên đi. Chắc chưa ăn uống gì đâu phải không ? Vô nhà tắm rửa trước đi rồi tính. Để tui biểu tụi nó làm cơm ăn luôn nghe ? Bà ta vồn vả nói.

Người đàn bà hướng dẫn chúng tôi vào nhà khoảng gần 60 tuổi, gương mặt rất vui vẻ. Bà ta hướng dẫn chúng tôi vào một căn phòng và chỉ phòng tắm cho chúng tôi tắm rửa, sau đó bà đi ra phía sau. Tôi nghe tiếng bà ta hối thúc một người đàn bà khác phía sau lo cơm nước mà lòng cảm thấy an tâm lắm, mọi lo lắng từ chiều tới giờ hình như tiêu tan hết. Sau khi ăn uống xong xuôi, thấy Thành và người đàn bà khi nảy lâu ngày không gặp nên để họ nói chuyện, tôi dẫn thằng con vào trong dỗ nó ngủ được một lúc rồi cũng mệt mỏi quá nên ngủ quên luôn hồi nào không hay.

Chúng tôi được đánh thức dậy vào khoảng 5 giờ sáng hôm sau. Tôi và con trai tôi lo vấn đề vệ sinh cá nhân xong xuôi đi xuống nhà sau thì đã thấy người đàn bà hồi tối ngồi nói chuyện với Thành ở bàn ăn, bên cạnh nồi cháo trắng nghi ngút khói. Bà ta thấy hai cha con tôi xuống thì hối chúng tôi ăn cháo cho xong rồi sẽ có người đưa chúng tôi ra bến xe đi về lại Sài Gòn. Chúng tôi đang ăn thì có một người đàn ông ở nhà trên bước xuống. Thành giới thiệu với tôi là : « Anh Sáu » con của người đàn bà hồi tối. Người đàn ông này khoảng 36, 37 tuổi, cách nói chuyện chững chạc, điềm đạm lắm. Anh ta hỏi thăm xã giao với tôi mấy câu, sau đó chủ yếu chỉ nói chuyện với Thành, thăm hỏi gia đình Thành ... (Cả nhà anh ta khi nói chuyện với Thành, ai cũng gọi Thành bằng « cậu Ba » và gọi Má của Thành bằng Bà coi bộ nể trọng lắm). Xong xuôi đâu đó, anh ta gọi một thanh niên lên, bảo lái xe chở chúng tôi đến bến xe và căn dặn anh thanh niên này kỹ lưỡng là phải đợi xe đò chạy mới được về. Chúng tôi từ giã chủ nhà đi ra ngoài thì đã thấy anh thanh niên tài xế lúc nảy ngồi chờ sẳn trên một chiếc xe Jeep loại quân đội. Đến đây thì trong bụng tôi thắc mắc lắm. Không biết gia đình này làm cái gì mà giờ này còn có xe Jeep lùn của quân đội cũ, lại còn có cả tài xế nữa ? ? Tuy thắc mắc như vậy nhưng không tiện hỏi.

Anh chàng tài xế làm đúng theo chỉ thị, chở chúng tôi ra bến xe. Khi chúng tôi lên ngồi trên xe đò rồi anh ta vẫn còn đứng đợi ở dưới cho đến khi xe đò lăn bánh ra khỏi bến, anh ta mới quay trở lại xe Jeep trở về. Đến đây thì tôi hết nhịn nổi, quay qua hỏi Thành liền :
- Gia đình đó quen làm sao với mày vậy ? Chủ nhà làm cái gì mà giờ này còn có xe Jeep với tài xế ngon lành vậy ?

Thành vừa cười, vừa trả lời tỉnh bơ :
- Thằng « chả » làm Việt Cộng chứ làm cái gì.

Tôi giật mình liền :
- Cái thằng này ! Bộ mày giỡn nhột với tao hả mậy ?. Sao mày dám vô nhà Việt Cộng xin tá túc cả đêm, mày không sợ bị phản phé bất tử, nó đem cả đám đi nhốt hết hay sao ?

Thành vẫn còn cười « mím chi cọp » :

- Nếu không chắc ăn, làm sao tao dám dẫn mày vô đó.
- Cả đám vô nhà lúc nữa đêm như vậy bộ ở nhà tin lời mày nói, không nghi ngờ gì hết sao ?
- Cả nhà ở đó biết là mình đi vượt biên liền, chứ dấu gì nổi ! Nói xong Thành lại cười.

Tôi không khỏi sững sốt :

- Trời đất ! Mày giỡn với tao hay nói thiệt vậy ? Đi với mày kỳ này đúng là « giựt con mắt » với mày luôn ! Làm sao mà họ biết ?
- Hồi tối lúc mày đi vô dỗ con mày ngủ, tao còn ngồi dưới nhà nói chuyện với Dì Hai là người đàn bà ra mở cổng cho mình. Bà ta là Má của anh Sáu chủ nhà, được một lúc thì anh Sáu về. Sau khi nghe tao thuật lại câu chuyện, anh ta hỏi tao liền : « Cậu Ba nói thiệt đi, có phải cậu Ba với hai cha con của người bạn đi vượt biên không xong rồi chạy về phải không ? ». Tao chối, nhưng anh ta biết liền, anh ta trấn an tao : « Không sao đâu, cậu Ba đừng sợ ? Không lẽ tụi tui đi hại cậu Ba sao ? Ơn của Bà tụi tui đâu bao giờ quên, chưa đền đáp gì cho Bà chút nào hết lẽ đâu tui lại đi hại cậu Ba. (Anh ta ám chỉ Má của Thành). Cậu Ba và người bạn cứ ở đây nghỉ ngơi đi, sáng mai ăn sáng xong tui sẽ cho người đưa cậu Ba ra bến xe đi về thành phố an toàn ». Tao cũng cứ chối chứ ngu sao mà nhận, nhưng tao biết ở nhà không ai tin, họ đã biết mình đi vượt biên thất bại chạy về rồi.
- Chủ nhà ở đó đang làm gì vậy ? Tao đoán chắc chức vụ cũng không nhỏ đâu.
- Tao cũng không rõ, Nghe nói hình như là Thành Uỷ,Tỉnh Uỷ,Tỉnh Bộ ... gì gì đó. Tao đâu bao giờ để ý tới mấy chuyện đó làm gì.
- Gia đình mày với mấy người này lieen hệ ra sao ?
- Từ thời ông bà Ngoại tao hồi xưa đã nuôi cả gia đình của họ. Tới thời Má tao cũng nuôi cả gia đình trong nhà, cho ăn học, coi như con cháu ... Anh Sáu đó coi Má tao như bà già ruột. Ai ngờ « thằng chả » đi theo Việt Cộng hồi nào đâu có ai biết. Mày biết mà ... ở quê ngày xưa, ban ngày là Quốc Gia, ban đêm là Việt Cộng kiểm soát, vùng xôi đậu lẩn lộn tùm lum. Tới sau 75, mới té ngữa ra là anh Sáu này làm lớn trong Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam của mấy tay Việt Cộng hồi nào không ai hay biết ... nhưng phải công nhận là gia đình này biết phải trái, lễ nghĩa với nhà tao lắm. Thỉnh thoảng lên xuống thăm viếng Má tao hoài.

Tôi nghe Thành kể mà không khỏi bàng hoàng. Thiệt tình, lần này đi vượt biên đã thất bại, rầu trong bụng gần chết, vậy mà còn có vụ này nữa. Đúng là một kỷ niệm đáng ghi nhớ. Hết chuyện đi vượt biên thất bại, nữa đêm lủi vô nhà cán bộ CS gộc xin tá túc qua đêm. Cũng may mọi chuyện trót lọt hết (Mãi tới bây giờ, những khi gặp Thành, chúng tôi vẫn hay nhắc lại chuyện này như là một giai thoại khó quên trong đời). 
Chúng tôi về đến Sài Gòn, kể lại chuyện này cho gia đình nghe, cả nhà ai cũng đều tức cười. Còn lý do chúng tôi chờ tới sáng mà không thấy ghe lớn ở đâu cả thì sau này mới biết. Ghe lớn trên đường ra điểm hẹn, qua trạm xét bị Công An nghi ngờ giữ lại hạch hỏi. Tuy phát giác nhiều dầu, thức ăn, nước uống khả nghi trên ghe, nhưng không có người khách nào bị bắt quả tang, nên cuối cùng chủ ghe lo lót được thả ra 2, 3 ngày sau đó. 

Vĩnh Khanh (Thương Tặng Con Trai LVS) 2005/07