Felix Arvwrx và bài thơ Sonnet - Tình Tuyệt Vọng |
Tác Giả: THÂN TRỌNG SƠN | ||
Thứ Ba, 25 Tháng 11 Năm 2008 15:08 | ||
Dalat - 2003 - Viết lại 6 / 2008
Không có nhiều tư liệu về cuộc đời và sự nghiệp của Félix Arvers (1806 – 1850). Sách văn học sử Pháp (Collection littéraire LAGARDE & MICHARD, XIXe siècle) không hề nhắc đến Ông. Từ điển Hachette giới thiệu rất nhiều nhà văn, nhà thơ thuộc nhiều thời đại cũng không ghi tên Ông. Larousse thì chỉ nói vắn tắt: “Thi sĩ Pháp, nổi tiếng với bài Sonnet bắt đầu bằng câu: Mon âme a son secret, ma vie a son mystère”. Một tư liệu khác có vẻ cụ thể hơn cũng chỉ ghi vẻn vẹn đôi dòng ngắn ngủi: “Félix Arvers là tác giả nhiều vở kịch khá thành công. Tác phẩm của Ông đã bị lãng quên, ngoại trừ tập thơ Mes heures perdues (Những giờ khắc hoài phí).” Tập thơ Mes heures perdues xuất bản năm 1833, thời điểm mà tên tuổi các nhà thơ thuộc trường phái lãng mạn Pháp đã rực sáng. Không rõ tập thơ dày mỏng thế nào, chỉ thấy còn lưu truyền một vài bài, trong đó một số bài viết tặng bằng hữu, hoặc có ghi tên ( À Alfred Tattet, À Alfred de Musset), hoặc viết tắt hay giấu tên (À mon ami *** Sonnet à mon ami R.), để bày tỏ quan điểm về nghệ thuật, về thi ca... Và tất nhiên hơi thở của dòng thơ trữ tình, bi thương của thời đại phả đầy trong thơ Arvers. Ông không ngần ngại nói rõ khát vọng kiếm tìm hạnh phúc của mình, dù đấy chỉ là thứ hạnh phúc bình dị của “chút tình tri kỷ”: Thuở thanh xuân tôi từ bỏ tình yêu (Sonnet à mon ami R.) hoặc là thứ hạnh phúc gia đình với vợ đẹp, con ngoan, với bạn bè, láng giềng thân thuộc để sớm hôm hàn huyên tâm sự : Tôi hằng mơ hạnh phúc một mái ấm Thế nhưng hạnh phúc đâu dễ tìm vì tình yêu đâu dễ gặp. Trước sau vẫn chỉ là “ người tình trong mơ ” bởi người chợt đến, chợt đi, không ước hẹn, ta trở về, thui thủi một mình ta. Nàng đến, không gì báo hiệu Những bài thơ như thế này (TTS dịch) chưa đủ để làm nên tên tuổi của tác giả và đều đã bị lãng quên. Trong toàn bộ tập thơ, duy nhất một bài được biết đến và chỉ cần bài này là đủ làm cho tác giả nổi tiếng, như cách nói của từ điển Larousse nêu trên. Độc giả Việt Nam biết đến Arvers cũng chỉ qua bài Sonnet này , trước tiên thông qua bản dịch của một nhà văn trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Bản dịch, với nhan đề Tình tuyệt vọng, thành công đến nỗi nhiều người cho rằng nó còn hay hơn cả nguyên tác có tên đơn giản là SONNET, hoặc là SONNET D’ARVERS như người ta thường gọi. Mon âme a son secret, ma vie a son mystère. Đây rồi cái “tôi” (le “moi”) quen thuộc của trường phái lãng mạn, cái tôi mạnh dạn và thẳng thắn, không ngại ngần úp mở, không rào đón quanh co, được nhấn mạnh bởi cách dùng một loạt các tính từ sở hữu và đại từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất. Và ở đây cái tôi gắn liền với khái niệm khổ đau : “Le mal est sans espoir…”, “Hélas !”, “ solitaire…”. Le mal est sans espoir, aussi j’ai dû le taire Nỗi đau không nói được, xin mượn ngòi bút để thổ lộ can trường, bởi, nói như Alfred de Musset, một người bạn thơ của Arvers : Lời tuyệt vọng là lời ca đẹp nhất
Un amour éternel en un moment conçu. Hẳn là chàng gặp gỡ đã từ lâu. Hẳn là chàng đau khổ đã từ lâu .Bởi nàng nào đâu hay biết gì . Và hơn thế nữa, suốt quãng đời còn lại cũng hoàn toàn vô vọng, “dù gặp nhau cúi mặt bước mà thôi “ : Et j’aurai jusqu’au bout fait mon temps sur la terre Không dám. Dù chỉ một lần. Phải chăng vì chàng quá nhút nhát, e thẹn ? Không, chỉ vì Trời đã sinh ra nàng đoan trang quá, hiền hậu quá, hãy để nàng thủy chung, hãy để nàng chu toàn bổn phận. Cho hình ảnh nàng mãi thánh thiện. Cho Tình Yêu thăng hoa. Và trở thành bất tử. Ít nhất là với bài thơ này. NÀNG LÀ AI? Bản dịch của Khái Hưng : Đọc văn thơ, nghe âm nhạc, nhiều người vẫn có thói quen tò mò muốn biết ai là nguyên mẫu, là nguồn cảm hứng khiến người nghệ sĩ viết nên bài thơ, bản nhạc ấy. Trường hợp này cũng thế. Từ sau khi bài thơ được phổ biến, bao nhiêu giấy mực đã dành cho cuộc truy tìm lai lịch người đẹp khiến thi sĩ ôm mãi mối tình tuyệt vọng mà viết nên những dòng thơ trác tuyệt này. Có ý kiến cho rằng dây chỉ là một hình ảnh phúng dụ (allégorie), người đẹp chẳng hề hiện hữu, hơn nữa trong các ấn bản đầu tiên của tập thơ, trên bài này có ghi chú “ dịch từ tiếng Ý ” (traduit de l’italien) nhưng vì không ai đưa ra văn bản gốc nên giả thuyết này không đứng vững được. Một ý kiến khác, dựa vào quan hệ thân tình giữa Félix Arvers và Victor Hugo, cho rằng người đẹp bí mật này chính là … phu nhân của Victor Hugo mà Arvers đã kín đáo nhắc đến tên Adèle bằng cách dùng các vần “ fidèle ” và “d’elle” trong khổ thơ cuối ! Ý kiến khác nữa - có vẻ được nhiều người đồng tình - nhắc đến tên Marie Nodier, ái nữ của nhà văn viện sĩ Viện Hàn Lâm Pháp Charles Nodier (1780-1844), người thường tổ chức những buổi bình thơ văn tại thư viện Arsenal quy tụ nhiều thi sĩ lừng danh như Victor Hugo, Lamartine, Alfred de Vigny, Alfred de Musset… Những lần gặp gỡ thường xuyên nơi đây đã khiến Arvers thầm yêu trộm nhớ Marie Nodier mà không hề ngỏ ý cho đến khi nàng sang ngang vào năm 1833 và trở thành bà Marie Mennessier – Nodier. Nhưng nói cho cùng, có nhất thiết phải biết rõ về người phụ nữ đó thì người đọc mới cảm mới thích bài thơ này không? Tình tuyệt vọng Lạnh lùng lòng sẽ hỏi lòng, Dẫu ta đi trọn đường trần Trong toàn bài, cái không khí u uẩn, ngậm ngùi, sầu thảm được tô đậm bởi cách dùng từ rất “đắt” Lòng ta chôn một khối tình Lòng ta chôn một khối tình Tình tuyệt vọng, nỗi thảm sầu Tình tuyệt vọng … Một mình mình biết, ngỏ lời cùng ai? Bản dịch của Mộng Tuyết Thất tiểu muội: U tình Trong một phút ôm lòng thắc mắc, Mối yêu đương dằng dặc khôn khuây. (Dẫn theo Huyền Viêm , Kiến thức ngày nay số 577 20/8/2006) Một không khí trầm mặc bi thương với nhiều từ cổ và thể thơ song thất lục bát! Bản dịch của Yã Hạc và Trịnh Nguyên Bản dịch của Bình Nguyên Lộc Hồn tôi ủ kín niềm riêng, Và bản dịch tiếng Anh: MY SECRET "Who can this woman be?" and will not comprehend. Một bản dịch hay, vừa sát vừa thoát, phải chăng do thuận lợi là nét tương đồng giữa hai ngôn ngữ? CÁC BÀI THƠ MÔ PHỎNG Trong khi người đọc khắp nơi tìm cách chuyển ngữ bài thơ để giới thiệu rộng rãi hơn với công chúng thì ngay trên đất Pháp lại có một hiện tượng thú vị : hàng chục, hàng trăm bài thơ mô phỏng (pastiche) ra đời. Tiêu biểu là bài dưới đây của LOUIS AIGOIN, thay lời người phụ nữ để đáp lại Arvers. Tác giả đã dùng lại 14 từ cuối cùng của 14 câu của bài Sonnet d’Arvers, lối pastiche này như thế gần giống với lối họa thơ của thơ Đường hay thơ Việt : Ami, pourquoi me dire avec tant de mystère (Dẫn theo Huyền Viêm - Kiến thức ngày nay số 577 – 20/8/2006) Bản dịch của Mộng Tuyết Thất tiểu muội: “Người này ai há? Ai đâu vậy cà?” Chừng đó đủ thấy trong dịch thuật, nhất là dịch thơ, việc trung thành tuyệt đối với văn bản gốc là điều cực khó – mà thực ra, có cần như thế ? Bản dịch dù có biến dạng ít nhiều vẫn là một tác phẩm nghệ thuật với tất cả cảm xúc và sáng tạo của người dịch. Bản dịch của Trần Mai Châu: Võ vàng là lá thư hoa, Lạnh lùng lòng sẽ hỏi lòng Có thể nói nếu không ghi chú “ nguyên tác tiếng Pháp…. “, nhiều người không nghĩ đây là thơ dịch, nhất là khi đọc những câu : Người dù ngọc nói hoa cười Một niềm tiết liệt đoan trinh “Tình tuyệt vọng” của Khái Hưng vẫn xứng đáng được nhiều yêu thích và thuộc nằm lòng từ lúc được công bố đến nay. Bản dịch của Lãng Nhân Phùng Tất Đắc : Thật ra bài thơ dịch này ban đầu không xuất hiện riêng lẻ mà nằm trong truyện ngắn TÌNH TUYỆT VỌNG của Khái Hưng. Trong truyện này người đau khổ vì yêu là thi sĩ Văn Châu, một lần đi làm phù rể cho bạn, chàng bỗng đem lòng yêu … vợ bạn! “Chàng không hiểu vì cớ gì, nhưng mới thoạt trông thấy cô dâu là chàng đã đem lòng yêu ngay, cái yêu vô nghĩa lý, nhưng nó mạnh mẽ vô chừng, tưởng như hai người vốn sẵn duyên kiếp từ đời nào, đã hẹn hò cùng nhau ở kiếp nào mà đến bây giờ mới gặp gỡ.” Sau ngày cưới đó, ngày ngày Văn Châu vẫn đến chơi nhà bạn, “ trong lòng chôn một mối tình vô lý”. Năm năm sau, nhân một buổi tiệc đêm Noel cùng với vợ chồng người bạn và hai người khác nữa, thi sĩ mới có cơ hội thú nhận “ tôi phạm một tội nặng lắm “ mà bạn chàng hiểu ngay là tội khả ái, là ái tình tuyệt vọng ! Được bạn thông cảm an ủi “vậy thì anh cứ yêu, cứ yêu như anh đương yêu. Yêu như thế không có tội gì hết, mà người chồng dẫu có biết cũng chỉ thương anh chớ không ngờ vực anh đâu”, thi sĩ Văn Châu mới đọc cho các anh các chị nghe bài đoản thi tôi dịch của Arvers ra quốc văn. Tên của truyện ngắn trở thành tên bài thơ. Tình tuyệt vọng – Cái nhan đề này do Khái Hưng tự đặt, một sáng tạo đầu tiên của người dịch, thứ sáng tạo được phép của người làm công việc chuyển ngữ một tác phẩm văn học, lại là một sáng tạo cần thiết trong trường hợp này bởi nguyên tác thường chỉ ghi là Sonnet d’Arvers.Có thể đây là một bài thơ thuộc loại “ Không đề “ và nhan đề do người sau gán cho tác phẩm chứ không phải của tác giả. Tình tuyệt vọng _ Khái Hưng đã hiểu, đã cảm, đã chia sẻ hết cả tình cả ý cả tâm trạng cả nỗi niềm của tác giả nên mới đặt thêm cái nhan đề này. Và những người dịch khác, sau Ông, (Lãng Nhân Phùng Tất Đắc, Trần Mai Châu…), hẳn muốn làm khác đi nhưng cũng phải viết lại như thế thôi. Dịch thơ Sonnet Pháp, Khái Hưng đã chọn thể thơ lục bát thuần Việt, bám sát nguyên tác từng khổ thơ một, chỉ phát triển hai khổ ba câu cuối thành tám câu, cho trọn bốn cặp sáu tám. Bám sát nguyên tác nhưng không hề gò ép, khiên cưỡng, vụng về theo kiểu dịch “mot à mot”, ngược lại rất nhiều câu dịch đúng và đủ ý mà không có vết tích của sự chuyển ngữ : Điều bi thảm hơn là nỗi đau đó chừng như đeo đẳng suốt cả cuộc đời chàng trai si tình. |