Nữ Sĩ Hồ Xuân Hương Một Thiên Tài Nhưng Bất Hạnh |
Tác Giả: Nguyễn Quý Đại |
Thứ Năm, 19 Tháng 2 Năm 2009 13:22 |
Dân tộc Việt Nam luôn chiến đấu dành độc lập, tự do, mở đầu cuộc khởi nghiã của chị em Hai Bà Trưng (40-30 trước công Nguyên) và Bà Triệu (năm 248) để lại những chiến tích oai hùng. Những người không cầm gươm, đao xông pha nơi chiến trận, thì cầm bút đóng góp cho nền văn hoá dân tộc những nhà thơ nữ nổi tiếng như : Đoàn Thị Điểm dịch giả Chinh Phụ Ngâm khúc của Đặng Trần Côn, Ngọc Hân công Chúa với Ai tư vãn.. Ngô Chi Lan Ỷ Lan Phu nhân, Huyện Thanh Quan, Sương Nguyệt Ánh. Nữ sĩ nổi tiếng một thời được gọi là Bà Chúa Thơ Nôm (1) Hồ Xuân Hương xuất hiện vào thế kỷ thứ 18. Giai đoạn đất nước chia đôi hai miền Nam Bắc. Trịnh - Nguyễn phân tranh gọi là Đàng trong Đàng ngoài, lấy sông Linh Giang làm biên giới từ những năm 1627 đến 1772. Hồ xuân Hương sinh năm (1772-1822) (2) con ông Hồ Phi Diễn, làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu Nghệ An. Theo một số tài liệu dẫn chứng: Hồ Sĩ Anh đời nhà Lê sinh bốn người con trai : Hồ Thế Viêm, Hồ Phi Quyền, Hồ Phi Cơ, Hồ Phi Tích (1665-1734 đậu Hoàng giáp năm 1700). Hồ Thế Viên là ông Tổ bốn đời của anh em nhà Tây Sơn đã đổi từ họ Hồ sang Nguyễn, còn Hồ Phi Cơ là ông tổ bốn đời cuả Hồ phi Mai tức nữ sĩ Xuân Hương. Như vậy Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Hồ Xuân Hương là anh em cùng họ ông tổ năm đời (3) Hồ Xuân Hương và thân phận Ông Hồ Phi Diễn thi đỗ Tống Sinh làm quan cuối thời đại vua Lê. Ông đã lập gia đình nhưng cưới thêm vợ thứ quê Hải Dương, sinh ra Xuân Hương. Lúc Xuân Hương 13 tuổi thân phụ mất, Xuân Hương rời làng Khán Xuân theo mẹ về làng Thọ Xương gần Hồ Hoàn Kiếm, đi học một thời gian phải ở nhà giúp mẹ lo sinh sống gia đình. Xuân Hương tự học thêm, thông minh làm thơ hay, tiếng tăm lừng lẫy. Có Tổng Kình tên tự Nguyễn Công Hoà tục gọi là Tổng Cóc ở làng Tứ Xã (nay thuộc huyện Phong châu - Vĩnh Phú). Cai Tổng mến tài của Xuân Hương, nhờ người mai mối cưới Xuân Hương làm thứ thiếp. Theo tục truyền chiều 30 tết, Tổng Cóc đem biếu quà tết cụ Đồ Xứ bị Hồ Xuân Hương ra câu đố. „ Tối ba mươi khép cánh càn khôn kẻo nữa ma vương đưa quỷ tới“ Sáng hôm sau, Tổng Cóc đến làm xong thủ tục xông nhà đọc lại câu đối „Sáng mồng một mở then tạo hoá để cho thiếu nữ rước xuân vào“ Có thể Xuân Hương mến mộ chàng trai nầy có khiếu văn chương? nên nhận lời kết hôn với Tổng Cóc. Theo tài liệu của Giáo sư Lê trí Viễn (4), Tổng Cóc không phải là một anh trọc phú, mà là một nho sĩ từng có phen lều chõng như ai và trong sự gặp gỡ Xuân Hương có chuyện chữ nghiã chứ chẳng phải chỉ có đồng tiền ..“ Tổng Cóc yêu thương Xuân Hương và từng bảo nàng làm thơ viết vào gỗ để người ta sơn then giữ cho bền, hiện nay tại nhà thờ của ông Kiều Phú, thôn Đại Đình, xã Sơn Dương huyện Phong Châu, Vĩnh Phú còn tấm ván mít ghi những nét thơ Nôm của Hồ Xuân Hương. Bút tích còn 4 câu thơ : Thảo lai băng ngọc kính Xuân tận hoá công hương Độc bằng đan quế thượng Hào phóng bích hoa hương tạm dịch Nói đến tấm gương bằng ngọc Hóa công cũng chịu lúc tàn xuân Chỉ bằng lúc vin cành quế đỏ Tha hồ hoa biếc tỏa hương thơm (5) Tình yêu giữa hai người không được bao lâu trong hoàn cảnh gia đình mà người chồng yếu đuối, Xuân Hương bản tính nghệ sĩ giao tiếp rộng.. không tránh được va chạm hằng ngày trong xã hội phong kiến „Đau đớn thay phận đàn bà! Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu“ Xuân Hương bị gia đình bên chồng đè nén với thân phận làm lẽ. Nên đã phản kháng quyết bỏ nhà ra đi. Thân phận của Xuân Hương cũng như hoàn cảnh cua kiếp đàn bà làm lẽ mọn : Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng Chém cha cái kiếp lấy chồng chung ! Năm thì mười hoạ chăng hay chớ Một tháng đôi lần có cũng không Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm Cầm bằng làm mướn, mướn không công Thân nầy ví biết dường nầy nhỉ Thà trước thôi đành ở vậy xong Ca dao cũng có bài Tối tối chị giữ mất buồng Chị cho manh chiếu nằm suông chuồng bò Mong chồng, chồng chẳng xuống cho Đến khi chồng xuống gà o o gáy dồn... Từ giã gia đình Tổng Cóc đi tìm phương trời thơ mộng tự do hơn, vốn người yêu thơ văn lãng mạn muốn vượt qua bức tường nho giáo khắc nghiệt, nhưng không tránh được cái nghiệp tình duyên ngang trái. Xuân Hương lấy ông phủ Vĩnh Tường, tình yêu được trân quý hơn, nên Xuân Hương làm bài thơ giã từ “khóc Tổng Cóc“. Chàng Cóc ơi ! Chàng Cóc ơi ! Thiếp bén duyên chàng có thế thôi Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi. Bài „khóc Tổng Cóc “gây nhiều dư luận trong văn học, những người ở Làng Mương, làng Giáp nói bài thơ đó là khóc cho mối tình của Xuân Hương, không phải khóc người chồng đã mất, bởi vì Xuân Hương từng khổ đau với hoàn cảnh làm vợ lẽ trong gia đình Tổng Cóc nên dùng những từ ngữ chỉ họ hàng nhà Tổng Cóc nào là nòng nọc đứt đuôi..để giễu lúc Tổng Cóc còn sống, Xuân Hương lập gia đình với ông phủ Vĩnh Tường cũng trong cảnh lẽ mọn không tránh được cảnh khổ ghen tương cay độc như Hoạn thư Rằng tôi chút dạ đàn bà, Ghen tuông, thì cũng người ta thường tình Lòng riêng, riêng cũng kính yêu. Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai Kiều cuả Nguyễn Du Thời gian chung sống tri ngộ ông phủ Vĩnh Tường (ở Thổ Tang, Vĩnh Phú bây giờ) tuy làm vợ lẽ nhưng ông Phủ coi nàng là bạn văn chương tình duyên không đến nỗi bẽ bàng. Nhưng tình nghiã vợ chồng chỉ trong 27 tháng ông Phủ mất, Xuân Hương đã khóc chồng. Cuộc đời Xuân Hương về tình duyên bất hạnh. Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ơi! Thiếp bén duyên nàng có thế thôi Chôn chặt văn chương ba thước đất Ném tung hồ thỉ bốn phương trời Cán cân tạo hoá rơi đâu mất; Miệng túi càn khôn thắt lại rồi Hăm bảy tháng trời là mấy chốc; Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ơi ! Cuộc đời Xuân Hương có thể “bảy nổi ba chìm” qua hai đời chồng hy sinh cả đời chịu thân phận làm lẽ mọn, nỗi khổ đau cũng là niềm dang dở cái mối duyên thiên, duyên trời nào có phải là hậu qủa oan nghiệt của con nguời như „chữ tài liền với chữ tai một vần“ ! Thơ và bạn đời Tập thơ Lưu Hương Ký chú dẫn: Hoan Trung Cổ Nguyệt Đường Xuân Hương nữ sĩ sử tập Lưu Hương Ký viết xong năm Giáp Tuất (1814) mãi đến năm 1964 được phát hiện (?). Tên di cảo có nghiã là ghi mùi hương thơm của ngọc lưu, chữ Lưu này nhắc nơi Xuân Hương sinh ở huyện Quỳnh Lưu. Trong tập thơ có 30 đầu đề ; 24 bài thơ chữ Hán và 28 bài thơ Nôm, phần xướng hoạ có lẫn thơ của văn nhân thời bấy giờ để lại số đề tài khúc chiết, nồng nàn yêu đương mong đợi. Ở Cổ Nguyệt Đường do Xuân Hương dựng lên ở phường Khán Xuân gần Hồ Tây khu vực vườn Bách Thảo, trường Bưởi đường Cổ Ngư làng Yên Phụ. Tình yêu, tình bạn của Xuân Hương rất nhiều bài gợi cảm, lãng mạn với những văn nhân thi sĩ như (trích dẫn mỗi người một tựa đề) : Thi hào Nguyễn Du (1765-1820) bài: Cảm cựu Kiêm Trình Cần Chánh học sĩ Nguyễn Hầu Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung Mượn ai tới đấy gửi cho cùng Chữ tình chốc đã ba năm vẹn Giấc mộng rồi ra nửa khắc không ? Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập Phấn son càng tủi phận long đong Biết còn mảy chút sưong đeo mái Lầu Nguyệt năm canh chiếc bóng treo... Xuân Hương với Tốn Phong hai bài : Ngụ ý đến Tốn Phong Thi“ v v.. Đường hoa diù dặt bước đông phong Nghĩ kẻ tìm thơm cũng có công Lạ mặt dám quen, cùng gió nước Nặng lòng nên nhẹ đến non sông Da trời nắng nhuộm tươi màu biếc Phòng gấm trăng in dải thức hồng Ai nhớ lấy cho lòng ấy nhỉ ! Trước trăm năm hẳn nợ chi không ? Xuân Hương với Hiệp trấn Sơn Nam Thượng họ Trần Ngọc Quán... Vác cắm đàn tao một ngọn cờ Ấy người thân đấy, phải hay chưa ? Lắc đầy phong nguyệt lưng bầu rượu Giắt lỏng giang hồ nửa túi thơ Đình nguyệt góp người chung đỉnh lại Trời Hoan mỏ mặt nước non xưa Bấy nay tài tử bao nhiêu tá ? Thèo đảnh khen ai khéo đạt cho! Xuân Hương với Mai Sơn Phủ„ Hoạ thơ Sơn Phủ“ bài thơ bằng Hán văn gởi bạn tỏ lòng quyến luyến nhớ thương. khoảng thời gian (1799- 1801) Này đoạn chung tình biết với nhau Tiễn đưa ba bước cũng nên câu Trên tay khép mở tanh chiều nhạn, Trước mặt đi về gấp bóng câu Nước mắt trên hoa là lối cũ, Mùi hương trong nệm cả đêm thâu Vắng nhau mới biết tình nhau lắm Này bạn chung tình biết với nhau.. Xướng họa với Chiêu Hổ tức Phạm đình Hổ (1768-1839) đối thủ với Hồ Xuân Hương Anh đồ tỉnh, anh đồ say Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày Này này chị bảo cho mà biết Chốn ấy hang hùm chớ mó tay.. Xuân Hương trải qua nhiều kinh nghiệm nhân sinh, nhất là về ái tình để rồi „quang cảnh trong đời chiếc gối mơ!” đời sống phóng túng của Xuân Hương để nhận lấy lời phê bình “tự thán“ Muôn kiếp biết là duyên trọn vẹn Một đời riêng mấy tiếng chua cay Sau khi viết xong tập Lưu Hương Ký (1814), bảy năm sau (1822) Xuân Hương mất, nhưng mộ bà được táng ở đâu? ngày nay vẫn chưa tìm được tung tích, chắc chắn cũng ở quanh Hà Nội ? năm 1842 Tùng Thiện Vương ra thăm cảnh Hồ Tây có làm bài thơ viếng mộ Xuân Hương „Long Biên trúc chi từ“ bản dịch ra Việt ngữ của học giả Hoàng Xuân Hãn Đây hồ rực rỡ hoa sen Sai người xuống hái để lên cúng đàn Chớ trèo qua mộ Xuân Hương Suối vàng còn giận tơ vương lỡ làng Sen tàn, phấn rữa mồ hoang Xuân Hương đã khuất bên làn cỏ xanh U hồn say tít làm thinh Gío xuân mấy độ thế tình không hay !! Những nét tiêu biểu trong thơ Hồ Xuân Hương Hồ Xuân Hương trưởng thành trong giai đoạn lịch sử chiến tranh, ảnh hưởng nặng nề phong kiến “nhất nam viết tử thập nữ viết vô”. Đàn bà ít được đi học ứng thí như đàn ông, may mắn học ít chữ, lấy chồng sanh con lo việc nội trợ. Xuân Hương đã tỏ ra là một thiên tài, làm thơ khẩu khí bị trợt té người ta cười, bà làm ngay hai câu thơ để chữa thẹn Giơ tay với thử trời cao thấp Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài Hồ Xuân Hương thông minh, có tài, khá tiếc thay sinh ra phận gái nên cái lỗi lạc của bà thành ra lãng mạn mà lắm người cho là “lẳng lơ“! Nhưng hãy đọc mấy câu thơ sau của bà, dũng khí như một đấng tu mi nam tử. Khi đi ngang qua miếu Sầm Nghi Đống, bị vua Quang Trung giết ở Đống Đa mùng 5 tháng giêng năm Kỷ dậu 1789. Người Hoa lập miếu thờ, tin đồn miếu linh thiêng nên Xuân Hương đã đề mấy câu thơ : Ghé mắt trông nghiêng thấy bảng treo Kià đền Thái thú đứng cheo leo Ví đây đổi phận làm trai được Thì sự anh hùng há bấy nhiêu ? Dưới xã hội thời phong kiến người ta quan niệm „trai năm thê bảy thiếp, gái chín chuyên chỉ một chồng“ Xã hội bất công ! vấn đề đa thê ngày nay không được chấp nhận (ngoại trừ các nước theo Hồi Giáo). Ngày xưa chồng chết vợ phải thủ tiết thờ chồng.. Nhưng Xuân Hương đã muốn phá cái phong tục thời đó. Nên lúc sống với ông Phủ Vĩnh Tường, có người goá phụ còn trẻ muốn được tái giá, làm đơn xin quan phủ xét, gặp lúc ông phủ đi vắng, Xuân Hương xem đơn và phê ngay : Phó cho con Nguyễn thị Đào Nước trong loe lẻo cắm sào chờ ai ? Chữ rằng xuân bất tái lai Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già . Những bài thơ tuyệt tác của Xuân Hương được lưu truyền hậu thế qua tập Lưu Hương Ký. Biệt tài thơ Xuân Hương dùng chữ Việt thuần tuý, không vay mượn điễn tích sáo ngữ, đọc thơ hiểu được nghiã đen và nghiã bóng. Đọc thơ Hồ Xuân Hương với tâm hồn nghệ sĩ thực sự phát hiện được những khía cạnh miêu tả rất thẩm mỹ. Đọc bài „Ngủ quên„ như xem bức tranh trưa hè người thiếu nữ đang ngủ, độc giả có thể liên tưởng đến bức tượng khỏa thân với những đường nét tuyệt vời sống động... cảm thấy rung động nghệ thuật trước hình ảnh đẹp lành mạnh. Mùa hè hây hẩy gió nồm đông Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng Lược trúc chải cài trên mái tóc, Yếm đào trễ xuống dưới nương long Đôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt Đi thì cũng dở ở không xong. Cái đẹp bất cứ ở đâu đều được mọi người yêu chuộng, người trần tục ai thấy hoa đẹp không muốn nhìn? Từ xưa và nay nhiều phê bình bàn cãi tranh luận, thơ Xuân Hương mang tính chất dâm và tục ..Những người yêu thơ Xuân Hương thường hết lời ca tụng xem những sáng tác cuả Xuân Hương kỳ diệu từ cách dùng chữ chính xác âm điệu kỳ tài.. Nhóm khác phê bình thơ mang chất tục sinh lý đè nén „Libido“ ..Bài thơ đầu đề không được thanh “Dương vật“ Hồ Xuân Hương tả rất hay Bác mẹ sinh ra vốn chẳng hèn Ban đêm không mắt sáng như đèn Đầu đội nón da loe chóp đỏ Lưng đeo bị đạn rủ thao đen Để có thể thẩm định thế đứng của nhà thơ nầy, nói về Văn học không thể đọc một số bài thơ rồi cho là dâm tục có quá đáng chăng?.. Bởi vì vấn đề Tình Dục từ Á sang Âu thường được trình bày qua các tác phẩm văn chương, những hình điêu khắc chạm trổ trong các Cung điện, Đền đài lưu tại từ ngàn năm về trước có những nét đẹp độc đáo như thân thể đàn bà qua những đường cong tuyệt vời, bộ ngực no tròn lồ lộ dưới lớp xiêm y mỏng manh .. những tác phẩm đó thể hiện linh động văn hóa, sắc thái mang tính chất diễn tả về nghệ thuật. Mỗi dân tộc văn minh có sinh hoạt văn hoá khác nhau, Nhiều sắc dân họ thờ các bộ phận sinh dục, dân tộc Chàm xây các Tháp theo hình tượng Lingam (dương vật) tình dục được nói đến trong sinh hoạt của con người. Xã hội bình dân xưa không thoát khỏi qui luật dục vọng cá nhân là lẽ sống con người, dục vọng tập thể là lẽ sống của xã hội. Bởi vậy ca dao được truyền tụng trong dân gian. Có chồng từ thuở mười lăm. Chồng chê tôi nhỏ không nằm cùng tôi. Đến chừng mười chín đôi mươi. Tôi ngủ dưới đất chàng lôi lên giường Một rằng thương, hai rằng thương Có bốn cẳng giường gãy một còn ba! Ca dao Đời sống qua thi ca bình dân, diễn tả trào lộng, vui tươi vốn có trong thực tế không nói xa gần, cái điếu cày hút thuốc người bình dân . Lòng em cay đắng quanh năm Khi ngồi, khi đứng, khi nằm nghênh ngang Các anh các bác trong làng Gặp em thì lại vội vàng nâng niu Vắng em đau khổ trăm chiều Tuy rằng cay đắng nhưng nhiều người mê (ca dao) Nổi tiếng như Truyện Kiều diễn tả lại chuyện tình dục trong khuê phòng, Đêm xuân một giấc mơ màng Đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm trơ hoặc Này con thuộc lấy nằm lòng Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề Chơi cho liễu chán hoa chê Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời Khi khóe hạnh khi nét ngài Khi ngâm ngơi nguyệt khi cười cợt hoa Điều là nghề nghiệp trong nhà Đủ ngần ấy nếp mới là người soi Hay Trạng Quỳnh với bài tạ ơn cô hàng bánh Đương cơn nắng cực đói lòng thay Thết đãi ơn cô có bụng nầy Giờ biết lấy gì mà tạ lại Xin quỳ hai gối chống hai tay Sinh hoạt xã hội bất kỳ ở tầng lớp nào, dục tính cá nhân vẫn len lỏi vào cuộc sống. Cái khác biệt toàn thể về bản chất không ai giống ai. Hồ Xuân Hương người trần tục nên ca tụng sinh họat trần tục và những niềm vui trần tục, đọc thơ Xuân Hương để tiếp nhận cái tinh thần hồn nhiên trong ca dao, tục ngữ. Tôi Không đào sâu cái „tục“ trong thơ làm đề tài chính. Thơ Xuân Hương rất sống động tài tình mang tinh hoa khác, đó là một giá trị tồn tại mãi mãi trong lâu đài văn hoá dân tộc. Đọc hai bài thơ sau để so sánh bài đèo Ngang và đèo Ba Đội cuả hai nữ sĩ Bước tới đèo ngang bóng xế tà Cỏ cây chen đá, lá chen hoa Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ (rợ) mấy nhà Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia Dừng chân đứng lại trời non nước Một mảnh tình riêng ta với ta Huyện Thanh Quan Chúng ta cảm nhận bài thơ ấy hay nhẹ nhàng trang nhã, bài nầy có 8 câu nhưng vay mượn ý của hai câu chữ Hán Dạ thính đỗ quyên minh quốc quốc Nhật văn cô điểu khiếu gia gia Nghiã là Đêm nghe đỗ vũ kêu quốc quốc Ngày lắng gà rừng gọi gia gia Hồ Xuân Hương vịnh đèo Ba Đội là một bức tranh tả chân đơn sơ Một đèo, một đèo lại một đèo Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo Cửa son đỏ loét tùm lum nóc Hòn đá xanh rì lún phún rêu Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc Đầm đià lá liễu giọt sương rơi Hiền nhân quân tử ai là chẳng Mõi gối chồn chân cũng muốn trèo Bài thơ nầy đọc qua độc giả có thể nhận ra ngay đó là đèo Ba Đội, „một đèo, một đèo lại một đèo“ từ màu sắc “cửa son đỏ lóet; tùm lum, xanh rì; lún phún; lắt lẻo“.. Xuân Hương đã tài tình tạo ra một bức tranh sống động thành hợp tấu kỳ thú, từ âm thanh, màu sắc, nếu đi qua đèo thi độc giả chia sẻ với thi nhân Xuân Hương là một nhạc sĩ tài tình, phối hợp cả âm thanh, màu sắc, không gian lẫn thời gian, tạo những nét đặc sắc, thông thường ít nghe diệp âm „hõm hòm hom, toen hoẻn ..„ trong bài vịnh hang Cắc Cớ Trời đất sinh ra đá một chòm Nứt làm đôi mảnh hõm hòm hom Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn, Luồng gió thông reo vỗ phập phòm Gịot nước hữu tình rơi lõm bõm Con đường vô ngạn tối om om Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm Giọt nước từ những thạch nhủ rơi từng giọt, xuống vũng nước bên dưới lõm bõm, con đường vào hang thiếu ánh sáng. Ngày nay nhờ phương tiện lưu thông thuận lợi, nếu ghé hang Thánh Hoá ở làng Thuỵ Khê, huyện Sài Sơn tỉnh Sơn Tây (Hà Tây) hang ở hòn núi có Chùa Thầy. Hàng năm có hội chùa Thầy mà không vào hang Cắc Cớ thì coi như chưa biết chùa Thầy. Đến đó sẽ nhớ ngay nữ sĩ Xuân Hương ! là một thiên tài cũng vịnh cảnh Chùa Hương Tích ở huyện Mỹ Đức Hà Đông rất linh động cảnh trời mây non nước..vào những ngày đầu xuân, hội Chùa Hương nhộn nhịp, người tu hành thì ít, kẻ trần tục thì nhiều, muốn lên phải gọi là trèo các bậc thì đúng hơn là đi, chen chân trong động hương khói pha mờ mù sương. Người quen cõi Phật chen chân xọc Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm... Bài „đánh đu“ bức tranh quê sống động hơn, diễn tả cảnh vui xuân náo nhiệt Bốn cột khen ai khéo khéo trồng Người thì lên đánh, kẻ ngồi trông Trai đu gối hạc khom khom cật, Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng Bốn mảnh quần hồng bay phất phới Hai hàng châu ngọc duỗi song song Chơi xuân ai biết xuân chăng tá ? Cột nhổ đi rồi, lỗ bỏ không ! Có thể Hồ Xuân Hương phỏng theo bài thơ trên bài cây đánh đu vốn có trong tập Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập Bốn cột lang nha ngắm để trồng À thì đánh cái ả còn ngong Tế hậu thổ khom khom cật, Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng Tám bức quần hồng bay phất phới, Hai hàng châu ngọc đứng song song Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy Nhổ cột đem về để lỗ không . Ngày nay ở miền Bắc hội xuân vẫn còn giữ trò chơi đánh đu, thường những trai gái thích đánh đu như cuộc thi lòng dũng cảm. Khi chàng trai nhấn đu, cô gái trong tư thế tay nắm chặt, chân duỗi thẳng, chờ đón độ cao bay bổng. Khi độ cao đã giảm đến lượt cô gái nhún, chàng trai lại chờ đón..tất cả phải nhịp nhàng, khoẻ mà mềm mại bay cao ung dung, vẻ đẹp càng hiện rõ hình thể bên ngoài ..gối hạc, lưng ong, ngưả ngửa lòng, phất phới, song song. Xuân Hương đã khéo tài tình dùng điệp khúc Qua ca dao Việt nam cũng có nhiều bài truyền tụng rất là „tục“ như cái vịnh cái quạt Rành rành ba góc rành rành Khi khép nhỏ lại, khi vành to ra Khi vui thì sướng thay là Khi buồn thì nước chảy ra rì rì.. Hồ Xuân Hương tả cái quạt duyên dáng hơn có tính cách tương tự như ca dao tục ngữ hài hước, tả cái quạt có nhiều nan được bồi bằng giấy với hình dáng xòe ra để quạt cho mát, bất cứ ở đâu, khi mưa có thể che đầu, khi xếp lại những nếp giấy chồng lên vẫn còn thừa. Một lỗ sâu xâu mấy cũng vừa Duyên em dính dáng tự bao giờ Chành ra ba góc da còn thiếu Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa Mát mặt anh hùng khi nắng gió, Che đầu quân tử lúc sa mưa Nâng niu ướm hỏi người trong trướng Phì phạch trong lòng đã sướng chưa ... Ngành tiểu công nghệ dệt vải thời xưa mỗi gia đình ở thôn quê, thường trồng cây bông, nuôi tằm ươm tơ làm luạ tự dệt may sắm áo quần. Ban ngày làm việc đồng áng, đêm về dệt vải với dụng cụ đơn giản cái khung cửi, hai ống trục, một bộ go, hai cái lược, một đôi guốc con suốt, con thoi (con cò bằng gõ). Xuân Hương tả đêm cô gái dệt vải; mà phẩm chất vải tốt không phai màu phải ngâm lâu Thắp đèn lên thấy trắng phau Con cò mấp máy suốt đêm thâu Hai chân đạp xuống năng năng nhắc Một suốt đâm ngang thích thích mau Rộng hẹp nhỏ to vưà vặn cả Ngắn dài khuôn khổ cũng như nhau Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ Chờ đến ba thu mới dãi màu Chùa Quán Sứ được xây dựng từ thế kỷ thứ 17 nằm ở phố cũng mang tên Quán Sứ Hà Nội; Phật giáo vào thời Xuân Hương suy thoái, thời nào cũng có người núp dưới chiếc áo cà sa.. Xuân Hương đã nghi ngờ về chùa Quán Sứ trong cảnh vắng teo Quán sứ sao mà cảnh vắng teo Hỏi thăm sư cụ đáo nơi nao Chày kình, tiểu để suông không đấm Tràng hạt, vãi lần đếm lại đeo Sáng banh không kẻ khua tang mít Trưa trật nào ai móc kẽ rêu Cha kiếp đường tu sao lắt léo Cảnh buồn thêm chán nợ tình đeo Hay qua bài Khi cảnh, khi tiu, khi chũm choẹ Giọng hi, giọng hỉ, giọng hi ha Tu lâu có lẽ lên sư cụ Ngất nghểu toà sen nọ đó mà Người đời nhớ Xuân Hương ở tiếng cười phá phách, nhưng trong lòng Xuân Hương mang nặng những niềm đau .. trong đó khối tình của Xuân Hương nặng như đá, với những tâm sự thế thái nhân tình làm rung động sâu thẳm cõi lòng người Gan nghiã giãi ra cùng nhật nguyệt Khối tình cọ mãi với non sông Đá kia còn biết xuân già dặn Chả trách người ta lúc trẻ trung (Đá ông chồng, đá bà chồng) hoặc qua bài tình tự Canh khuya văng vẳng trống canh dồn Trơ cái hồng nhan với nước non Chén rượu hương đưa đưa say lại tỉnh Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn ! Xiên ngang mặt đất rêu từng đám, Đâm toạc chân mây đá mấy hòn Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại Mảnh tình san sẻ tý con con. Xuân Hương vịnh bánh trôi nước quen thuộc của người bình dân. Thân em ở đây (Xuân Hương) hay là thân phận đàn bà dưới thời phong kiến lắm lận đận? nhưng tấm lòng được tôn trọng Thân em trắng phận em tròn Bảy nổi ba chìm với nước non Lớn nhỏ mặc dầu tay kẻ nặn Mà em vẫn giữ tấm lòng son Hồ Xuân Hương có phong cách riêng tiêu biểu cho thái độ tự nhiên tràn đầy tình cảm trong sáng, thơ Hồ Xuân Hương rất bình dân, duyên dáng giàu khả năng gợi cảm, gợi tình, chứa chan tình tự và cảm khoái, không dùng hán tự điển tích. Bà có biệt tài sử dụng điệp khúc, âm điệu và tiết tấu, thích hợp với từng ý, từng hoàn cảnh. Dù muốn chê hay khen, đọc thơ Xuân Hương cảm thấy cái vui vui xen lẫn vào hồn, cái hay trong thơ Xuân Hương rất tuyệt vời, nhưng bài viết giới hạn không thể trình bày và trích giải hết được..Hồ Xuân Hương là nhà thơ độc đáo có một không hai trong văn học sử Việt Nam... 1/Chữ Nôm có vai trò nổi bật trong sáng tác văn chương. Mặc dù văn nhân, thi sĩ mọi thời đều đã dùng chữ Hán làm thơ, viết truyện, nhưng chỉ có với chữ Nôm, người Việt mới tạo nên những tác phẩm bất hủ. Tập thơ Nôm có niên đại sớm nhất còn lưu truyền là Quốc âm Thi tập của Nguyễn Trãi (1380 - 1420) sau đó là Bạch vân Am quốc ngữ thi của Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585). Văn học Việt nam qua các thời đại, chữ Hán các tiền nhân viết những tập truyện ngắn và tiểu thuyết văn xuôi, còn với chữ Nôm gần như các cụ chỉ làm thơ Sở trường và thành công bằng hai thể thơ giàu dân tộc tính này, vào cuối thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XIX Văn học cổ điển Việt Nam có những tác phẩm xuất sắc khiến thế giới phải biết đến là Chinh phụ Ngâm khúc của Đoàn Thị Điểm (1705 - 1748); Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) của Nguyễn Du (1766 -1820). Chúng ta còn các tên tuổi sáng giá khác nữa từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX như: Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Gia Thiều, Phạm Thái, đặc biệt thơ cuả Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Công Trứ, Trần Tế Xương v.v. ..Chính nhờ ở những tác giả này, tiếng Việt hấp thụ hai nguồn văn tự là chữ Hán và văn tự văn hóa dân gian, chữ Nôm để trở thành một ngôn ngữ văn học sáng chói và giàu sức diễn đạt 2/ Được dẫn chứng trong Hồ Quỳnh Gia Phả gia phả họ Hồ ở Quỳnh Lưu. Nhưng tác giả Lê Xuân Sơn viết trong tập „ Hồ Xuân Hương thơ và đời viết “HXH con ông Hồ sĩ Danh (1706-1783) em cùng cha khác mẹ với Hồ Sĩ Đống (1738-1786) là một vị quan đầu triều thời chuá Trịnh ? 3/ Những kỳ Án trong việt sử T.giả Trần Gia Phụng 4/( Hồ Xuân Hương thơ và cuộc đời trang 206) nhà xuất bản văn học. 5/ Theo phóng sự Hồ X Hương và Tổng Cóc ( Nguyễn Hữu Thanh) |