Kỷ Niệm 20 Năm Chủ Nghĩa Cộng Sản Sụp Đổ |
Tác Giả: Bảo Thạch | |||
Chúa Nhật, 22 Tháng 2 Năm 2009 12:27 | |||
Hình trên: Hội nghị bàn tròn tại Warsaw vào ngày 06-02-1989 giữa Công Đoàn Đoàn Kết Ba Lan và chính quyền Cộng Sản Ba Lan đã đưa đến sự cáo chung của chế độ Cộng Sản tại Ba Lan và những nơi khác trên thế giới trừ Việt-Nam, Trung Quốc, và Bắc Hàn.
Hình dưới: Cuộc nổi dậy thất bại của Hung Gia Lợi vào năm 1956. Phải đợi 33 năm sau, Hung Gia Lợi mới lật đổ được chế độ Cộng Sản, cùng một lúc với các nước Đông Âu, tiếp theo cuộc cách mạng ở Ba Lan.
Ngày mồng 6 tháng 2 năm 1989, cách nay đúng 20 năm, chính quyền cộng sản Ba Lan chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với đối lập. Sự kiện mang tên Hội Nghị Bàn Tròn đánh dấu tiến trình sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản. Chỉ hai tháng sau, Hội Nghị Bàn Tròn đưa đến kết quả là đôi bên thỏa thuận tổ chức tổng tuyển cử tự do cho một phần Quốc Hội. Nhờ vào cuộc bầu cử này, được tổ chức vào tháng 6, đối lập Ba Lan đã giành được thắng lợi to lớn. Một Quốc Hội chuyển tiếp hình thành và chỉ vài tuần sau, một chính phủ không cộng sản đầu tiên được thành lập tại Ba Lan, kể từ 45 năm. Để rộng đường dư luận, chúng tôi xin đăng nguyên văn bài viết sau đây của ông Lê Diễn Đức. Đối thoại và thoả hiệp - con đường dẫn tới dân chủ của Ba Lan Cách đây 20 năm, 6/02/1989, ngày mở đầu Hội nghị Bàn Tròn lịch sử giữa nhà cầm quyền cộng sản Ba Lan và Công đoàn Đoàn kết. Hội nghị Bàn Tròn là tiến trình đối thoại, dẫn tới chuyển hoá bất bạo lực từ chế độ cộng sản sang thể chế dân chủ của Ba Lan, tạo nên hiệu ứng đô-mi-nô cho hàng loạt các nước cộng sản khác ở Trung-Đông Âu, làm thay đổi cục diện chính trị toàn châu lục và thế giới. Bên Bàn Tròn, một phía là những người cộng sản cầm quyền. Phía khác là những nhà hoạt động dân chủ đã từng bị truy bức hoặc ngồi tù bởi chính những người đối diện. Họ không quen biết nhau, không trọng nhau, không tin nhau, thậm chí thù ghét nhau. Tổng biên tập nhật báo Gazeta Wyborcza (GW), Adam Michnik, bấy giờ là một trong các đại diện của phe đối lập, viết: “Với cả bên này và bên kia đều là cuộc thử thách - chúng ta đừng sợ đại ngôn - trước lòng yêu nước và trách nhiệm với Ba Lan. Tôi nghĩ rằng, trong những ngày ấy, tất cả đều đã vượt qua thử thách này” – (GW 4/04/2006). Hội nghị Bàn Tròn xuất phát từ sáng kiến của thủ lĩnh Công đoàn Đoàn kết L. Walesa và tướng C. Kiszczak, Bộ trưởng Nội vụ trong cuộc gặp mặt vào tháng 8/1988. Hội nghị diễn ra ở một số địa điểm, kết thúc tại Warszawa, với 452 người tham dự. Chương trình tập trung vào ba vấn đề: Kinh tế và chính sách xã hội; Cải cách chính trị; Đa nguyên cho công đoàn. Chính quyền cộng sản đồng ý ngồi đàm phán với phe đối lập trước hết do áp lực của làn sóng bãi công, tranh đấu đòi tự do, dân chủ diễn ra liên tục trên toàn quốc từ nhiều năm trước, mãnh liệt nhất vào giai đoạn sau khi ban bố tình trạng chiến tranh ngày 13/12/1981. Thứ đến, kinh tế suy sụp, lạm phát phi mã, nợ chồng chất, khiến nhà cầm quyền không còn căn cước xã hội để giải quyết các nan đề. Họ muốn trút một phần gánh nặng và trách nhiệm cho đối lập, từ đó lấy lại niềm tin của dân chúng, thực hiện các cải cách cứu vãn kinh tế. Michnik viết: “Chắc chắn bên ngoài chiếc Bàn Tròn là sự yếu đuối. Những người cầm quyền bị suy yếu khó có thể huỷ diệt đối lập dân chủ, những người đối lập thì còn yếu không thể lật đổ chế độ cộng sản. Bên trên sự thoả hiệp lởn vởn bóng đen của nước Nga đang mò mẫm tự do nhưng bị ràng trói bởi chủ nghĩa đế chế và cộng sản. Những người cầm quyền tới Hội nghị Bàn Tròn với niềm tin rằng, phải thay đổi tất cả để làm sao mọi thứ vẫn như cũ. Những người đối lập dân chủ thì tin rằng, cần phải tôn trọng mọi thực tế để làm sao thay đổi tất cả”- (GW 4/04/26). Tiến trình dân chủ Qua 2 tháng đàm phán gay go, kết thúc vào ngày 5/04/1989, Hội nghị Bàn Tròn đạt được thoả thuận quan trọng: bảo đảm bầu cử tự do 35% tổng số ghế của quốc hội và tự do hoàn toàn cho 100 ghế của Thượng viện. Trong cuộc bầu cử 4/06/1989, phe đối lập đã giành được 99 trong 100 ghế của Thượng viện và lấy hết 35% số ghế quốc hội. Quốc hội “chuyển tiếp” hình thành và chỉ định W. Jaruzelski, Bí thư thứ nhất đảng cộng sản, làm tổng thống. Ba tuần sau, chính phủ không cộng sản đầu tiên được thành lập kể từ 45 năm. Ngày 9/12/1989, Lech Walesa giành thắng lợi trong cuộc bầu cử tổng thống tự do đầy kịch tính. Tháng 27/01/1990, đảng cộng sản Ba Lan tuyên bố giải thể. Phần lớn đảng viên chuyển sang hoạt động với khuynh hướng mới trong tổ chức mang tên Liên minh Cánh tả Dân chủ. Ngày 27/10/1991, bầu cử quốc hội tự do. Hàng trăm đảng phái ra tranh cử. Có 29 đảng lọt vào quốc hội nhưng không đảng nào đạt đa số. Phe đối lập dân chủ thành lập chính phủ liên minh. Từ đây đánh dấu bước chuyển mình khó khăn của nền dân chủ non trẻ Ba Lan. Có dân chủ, các đảng phái chính trị đua nhau ra đời như nấm mọc sau cơn mưa. Cuộc tranh giành quyền lực lúc nào cũng quyết liệt bởi tham vọng, chia rẽ, cục bộ, quan liêu, tham nhũng. Trong 10 năm đầu thay đổi thủ tướng đến 7 lần! Thế nhưng, những bài học cọ xát đã giúp ý thức dân chủ trưởng thành. Qua 20 năm sàng lọc, các tổ chức yếu kém, cực đoan bị loại dần, chỉ còn từ 4 đến 5 đảng lọt vào quốc hội. Theo thời gian, sinh hoạt dân chủ Ba Lan phát triển và tự hoàn thiện, an ninh xã hội ổn định, mức sống của người dân được nâng cao rõ rệt. Những năm gần đây Ba Lan đạt mức tăng trưởng hàng đầu ở châu Âu. Từ nền kinh tế cộng sản kiệt quệ, đến năm 2008, Ba Lan có tổng thu nhập GDP 567,4 tỷ đôla (với 38,1 triệu dân), là thành viên quan trọng của Liên hiệp châu Âu (EU) và Khối Quân sự NATO. Trong bối cảnh suy thoái kinh tế thế giới hiện thời, Ba Lan tuy bị ảnh hưởng nhưng đứng khá vững vàng với hệ thống ngân hàng an toàn và cơ hội kích hoạt kinh tế lớn từ việc tận dụng quỹ xây dựng hạ tầng nhiều tỷ euro của EU. Ai đó nói rằng, đứa trẻ sẽ chẳng bao giờ biết bơi nếu không cho nó xuống nước. Thật chí lý với người Ba Lan khi họ quyết định lội vào dòng dân chủ. Các giá trị cơ bản của dân chủ và nhân quyền không phải của riêng ai hay do Mỹ và Tây phương áp đặt, mà là sản phẩm chung của nhân loại. Nó cho phép người Ba Lan bằng lá phiếu của mình được quyền đào thải những kẻ bất tài, thất đức và quyền được chọn những người có hạnh kiểm tốt và trí tuệ giỏi điều hành đất nước. Thắng lợi hay phản bội? Trong 20 năm qua, Hội nghị Bàn Tròn là một trong những sự kiện thuộc về quá khứ cộng sản vốn vẫn thường xuyên là đề tài nhức nhối, phức tạp trong xã hội Ba Lan. Không phải ai cũng đánh giá tích cực Hội nghị Bàn Tròn, thậm chí còn phủ nhận nó, kể cả những người đã trực tiếp tham dự. Truyền thông, báo chí tự do với trách nhiệm làm công bằng và lành mạnh hoá xã hội, đưa các sự kiện ra mổ xẻ, phân tích. Nhiều người cho rằng, Hội nghị Bàn Tròn là màn kịch do an ninh cộng sản đạo diễn và ngồi chung với cộng sản/kẻ thù là phản bội lại lý tưởng tự do, dân chủ. J. Olszewski, cựu Thủ tướng Ba Lan (1991-1992) đưa ra các dẫn chứng kết luận Hội nghị Bàn Tròn chỉ nhằm hợp thức những gì an ninh cộng sản đã sắp đặt trước với Lech Walesa - (Tuần báo “Glos”, số 54, 1989). J. Korwin-Mike, một nhà hoạt động đối lập nhận định Hội nghị Bàn Tròn chẳng qua là sự chấp nhận chuyển chế độ màu đỏ sang hồng. J. Kurski, dân biểu quốc hội nói: “Tôi sẵn sàng đồng ý với giả thiết rằng, không có Hội nghị Bàn Tròn thì chế độ cộng sản ở Ba Lan cũng sụp đổ” – (GW 4/04/2006). Đương kim tổng thống L. Kaczynski ôn hoà hơn: “Hội nghị Bàn Tròn có thể và cần phải phê phán. Nhưng dù sao cũng là bước cần thiết, đấy là những thoả thuận nào đó” – (GW 4/04/2006) Chính phát biểu của Lech Walesa trong thời gian khai mạc Hội nghị đã lường trước dư luận trên đây: “Chiếc Bàn Tròn này bao quanh hy vọng và cả hoài nghi. Sẽ có những người không thừa nhận những gì chúng tôi phải làm việc. Chúng tôi không thể không nhìn thấy và không tôn trọng. Thế nhưng chúng tôi mong đợi ở tất cả mọi người sự chia sẻ trung thực những gánh nặng diễn biến của trách nhiệm mà giờ phút ấy đòi hỏi” – (TVN24. PL 30/01/2009) Đối thoại và thoả hiệp Không ai có thể phủ nhận được những thành quả và vị thế kinh tế, chính trị hơn hẳn của Ba Lan ngày nay ở châu Âu cũng như trên thế giới sau khi từ bỏ chế độ cộng sản. Chân lý cuối cùng cũng chiến thắng hoài nghi và đố kỵ. Như T. Mazowiecki, thủ tướng Ba Lan không cộng sản đầu tiên năm 1989 nói: “Không thể có điểm kết của chủ nghĩa cộng sản nếu không có Hội nghị Bàn tròn” - (GW 4/04/2006). Trong ngày 23/01/2009, quốc hội Ba Lan ra nghị quyết tổ chức trọng thể kỷ niệm 20 năm Hội nghị Bàn Tròn với cuộc hội luận “Đối thoại và thoả hiệp” vào ngày 5/02/2009. Có một đồng thuận tuyệt đối, hiếm hoi giữa tất cả các đảng cầm quyền và đối lập trong quốc hội về nội dung nghị quyết. Nghị quyết có đoạn: “ Hội nghị Bàn tròn là sự cố gắng của nhân dân Ba Lan suốt gần 50 năm tranh đấu với mục đích lật đổ chế độ cộng sản. Sự cố gắng này đã không dưới một lần đồng nghĩa với sự căng thẳng và bằng sự đổ máu của các chiến sĩ tự do...”. “Những con người với chính kiến và nhân sinh quan khác nhau, từ phía Công đoàn Đoàn Kết đối lập và từ phía nhà cầm quyền bấy giờ, đã quyết định đối thoại. Sự sẵn sàng thoả hiệp ấy đã cho phép thực hiện những sứ mệnh của khoảnh khắc lịch sử”. “Cuộc chuyển hoá quyền lực bất bạo lực đã mở ra con đường xây dựng nền dân chủ ổn định trong một nhà nước với đường biên giới an toàn và quan hệ tốt với các quốc gia láng giềng”. Cũng nên nhắc lại, rất nhiều người của cả hai phía, đối lập cũng như cộng sản, từng có mặt tại Hội nghị Bàn Tròn, đã hoặc đang nắm những trọng trách trong đất nước Ba Lan dân chủ. Điển hình là: L. Walesa (đối lập), Tổng thống 1991-1995; L. Miller (cộng sản), Thủ tướng 2001-2004; A. Kwaśniewski (cộng sản), Tổng thống 1995-2005; L. Kaczyński (đối lập), Tổng thống 2005-2010, v.v. Hungari, xã hội thay đổi trước chính quyền Tác động của những cơn sóng ngầm vẫn không ngừng lan tỏa trong xã hội, kể từ khi cuộc nổi dậy năm 1956 của Hung đã bị Hồng Quân Liên Xô dìm trong biển máu và một số lãnh đạo Hung, như ông Imre Nagy bị lén lút hành quyết, thi hài bị giấu kín trong vòng bí mật Thông tín viên Hoàng Nguyễn Budapest Trong hai thập niên trước năm 1989, Hungari được xem như là gương mặt khả ái nhất trong phe cộng sản Đông Âu. Mức sống của dân Hung cao hơn nơi khác, nước này cũng đỡ ngột ngạt hơn Đông Đức, Roumani hay Bungari. Tuy nhiên, tác động của những cơn sóng ngầm vẫn không ngừng lan tỏa trong xã hội, kể từ khi cuộc nổi dậy của Hung chống chủ nghĩa Stalin năm 1956 đã bị Hồng Quân dìm trong biển máu và một số lãnh đạo Hung, như ông Imre Nagy bị lén lút hành quyết, thi hài bị giấu kín trong vòng bí mật. Vào năm 1989, dưới áp lực của công luận, Đảng cộng sản Hung đã phải công nhận cuộc nổi dậy năm 1956 không mang tính phản cách mạng. Đỉnh cao của công cuộc phục hồi cho những nạn nhân diễn ra vào tháng 6 năm 1989, khi gần nửa triệu người Hung tham gia việc tái mai táng cho Imre Nagy tại trung tâm thủ đô Budapest. Hungari, qua đó, đã nối lại với lịch sử đích thực của mình và chủ nghĩa cộng sản, từ đó, không còn lý do tồn tại. Hungary 20 năm nhìn lại Đầu năm 2009, công luận và truyền thông Cộng hòa Hungary có chuỗi nhìn lại những biến cố lớn diễn ra cách đây 20 năm, khiến Hungray từ một quốc gia trong khối XHCN cũ, trở thành một xứ dân chủ vỏn vẹn trọng vòng 10 tháng, mà không hề trải qua những đụng độ, đổ máu. Tuy nhiên, để đạt được thành quả có thể coi là mẫu mực ấy, phe đối lập dân chủ ở Hung đã có vài chục năm bền bỉ và kiên trì, bắt đầu từ đầu thập niên 70 thế kỷ trước, hoạt động khá mạnh với những ấn phẩm samizdat (tự xuất bản) vào đầu thập niên 80, và đạt được sự tổ chức, đoàn kết và có ý thức ở mức cao khi tổng bí thư Gorbachev lên nắm quyền ở Liên Xô và thực hiện các chính sách cải tổ (perestroika), công khai (glasnost). Cho đến mốc thời gian 1989, Hungary đã được “dọn đường” về chính trị, xã hội và kinh tế cho những biến chuyển dân chủ sâu rộng. Từ năm 1985-1986, phe đối lập đã có những hội nghị lớn ở vùng Monor, nhằm tìm ra con đường cho tương lai quốc gia – có thể coi đây là những “tiểu Hội nghị Diên Hồng” của Hungary. Năm 1987, bản “Khế ước Xã hội” của các nhân sĩ nổi tiếng đã được ấn hành, đề cập tới những điều kiện để phát triển nền chính trị dân chủ, với đòi hỏi nổi tiếng là lãnh tụ cộng sản Kádár János phải ra đi. Cùng năm, một văn kiện rất quan trọng khác là “Chuyển biến và cải tổ” cũng được ra mắt, đó là một chương trình cải cách, phân tích thể chế và tình hình kinh tế Hungary do 60 chuyên gia kinh tế và chính trị học chấp bút. Trong hai năm 1987-88, các đảng đối lập lớn như Diễn đàn Dân chủ Hungary MDF, Liên đoàn Thanh niên Dân chủ FIDESZ, Liên đoàn Dân chủ Tự do SZDSZ được thành lập, Đảng Tiểu chủ Độc lập cũng hoạt động trở lại - biến cố này khiến liên minh đối lập trở thành một lực lượng chính trị khá đồng nhất về mục tiêu và ý tưởng cho đất nước. Chính họ đã tổ chức những cuộc biểu tình lớn, thu hút sự tham gia và hưởng ứng của đông đảo nhân dân, vào năm 1988 nhân kỷ niệm cách mạng 1848 (tháng 3), rồi nhân 30 năm ngày thủ tướng Nagy Imre của cuộc cách mạng 1956 bị tử hình (tháng 6). Cho nên, đến đầu năm 1989, thì xã hội Hungry đã có những biến đổi vô cùng lớn lao so với các nước thuộc phe XHCN thời ấy. Nước Hung đã có những ngân hàng thương mại, người dân Hung từ mùa hè năm 1987 đã được tự do ra nước ngoài với cuốn "hộ chiếu thế giới". Hungary chấp nhận và đồng tình với việc mở cửa thị trường theo hướng tự do, việc chuẩn bị cho quá trình tư hữu hóa được tiến hành với các đạo luật bổ trợ. Một điểm hết sức quan trọng là sự ra đời của Đạo luật Bầu cử mới của Hungary là bắt buộc phải có nhiều ứng viên trong những kỳ bầu cử, là một điều được coi là tiên phong thời đó. Vào cuối thập niên 80 thế kỷ trước, đổi mới, cải tổ không chỉ là sự nghiệp của phong trào đối lập và cư dân, mà còn là nhu cầu tồn tại của nhóm cởi mở trong nội bộ Đảng Công nhân Xã hội Hungary (MSZMP, tức Đảng Cộng sản Hungary). Cuối năm 1988, lãnh tụ Kádár János bị thay thế trên cương vị tổng bí thư Đảng, bởi Grósz Károly là một chính khách cộng sản tương đối cởi mở. Đồng thời, nội các Hung - đứng đầu là ông Németh Miklós - cũng theo hướng đổi mới. Với lời tuyên bố của lãnh tụ Liên Xô Gorbachev sẽ giảm các đạo quân Xô-viết đồn trú tại Đông Âu, cũng như những nỗ lực dân chủ hóa của vị chính khách này - như lời khẳng định "người dân Liên Xô cần dân chủ như cần dưỡng khí để thở" - xã hội Hung đã chín muồi cho những biến đổi dân chủ ôn hòa. Tuy nhiên, những nỗ lực dân chủ của phe đối lập cần một cú hích trong xã hội, và cú hích ấy đã đến rất bất ngờ vào cuối tháng 1-1989. Nhân cơ hội tổng bí thư đảng đi dự Diễn đàn Kinh tế Thế giới Davos ở Thụy Sĩ, một nhân vật cải cách trong đảng là Pozsgay Imre đã đột ngột tuyên bố trước báo giới kết quả nghiên cứu của một ủy ban đặc trách trực thuộc Ủy ban Trung ương Đảng về sự kiện 1956. Theo quan điểm của ủy ban này, thì biến cố 1956, trước nay vẫn chính thức bị coi là "bạo loạn phản cách mạng", thực chất là một cuộc nổi dậy của nhân dân. Các sử gia Hungary nhận định rằng kể từ thời điểm ấy, thể chế cũ ở Hung đã đánh mất tính chính đáng và phong trào đối lập dân chủ - đặt trên nền tảng những ước vọng và đòi hỏi của cuộc cách mạng 1956 - chính thức được thừa nhận về căn bản. Tuy nhiên, phải đợi đến phiên họp ngày 10/11-2-1989 của Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Hungary thì những biến chuyển năm 1989 ở nước Hung mới có diện mạo rõ rệt. Trong phiên họp được đáng giá là lịch sử ấy, Đảng Cộng sản Hungay chính thức thừa nhận tính chất khởi nghĩa nhân dân của cách mạng 1956, đồng thời, chấp nhận sự cần thiết của sự hình thành một thể chế đa đảng và cho biết, họ sẵn sàng tham gia vào quá trình biến đổi ấy. Với quan điểm như thế, chính Đảng Cộng sản Hungary đã góp phần cho sự thành lập của Bàn tròn Đối lập vào ngày 22-3-1989, là một đại diện chung của phe đối lập, có quan điểm thống nhất trong những cuộc đàm phán với Đảng Cộng sản Hungary, dẫn đến sự hình thành của Đảng Xã hội Hungary (MSZP, xuất thân từ Đảng Cộng sản MSZMP, gồm những nhân vật cải tổ) vào tháng 10-1989. Cũng cần kể đến những biến cố trọng đại diễn ra trước đó, vào mùa hè 1989 ở Hungary: - Thứ nhất là lễ mai táng thủ tướng Nagy Imre và các cộng sự, những người đã bị điện Kremlin chỉ thị hành quyết trong cuộc cách mạng 1956. Buổi lễ diễn ra vào ngày 16-6, thu hút đại diện của chính quyền và tất cả các tổ chức đối lập, cũng như gần nửa triệu dân cư tập trung tại Quảng trường Anh hùng, trung tâm thủ đô Budapest. Tất cả đều coi đây là một cuộc "thử lửa" cho một biến chuyển hòa bình, và kết quả là ngày hôm đó đã được dân Hung xem như ngày hòa giải dân tộc, xóa bỏ và hóa giải những oan khiên trong quá khứ, - Thứ hai, là việc hàng trăm ngàn người tị nạn Đông Đức tràn sang Hungary, vạ vật tại các tòa đại sứ Phương Tây (đặc biệt là ĐSQ CHLB Đức) xin chiếu khán nhập cảnh và họ cho biết, bằng mọi giá, họ không muốn trở lại thể chế bưng bít ở Đông Đức. Ngày 10-9, ngoại trưởng Hungary Horn Gyula (về sau là thủ tướng Hungary trong nhiệm kỳ 1994-98), đã có một quyết định táo bạo và ngoạn mục, là mở biên giới Hung - Áo cho người tị nạn Đông Đức tràn sang Phương Tây. Động thái này, về sau đã được chính giới nước Đức trân trọng đánh giá: "Người Hungary đã dỡ những viên gạch đầu tiên của bức tường Berlin và nước Đức phải biết về điều đó". Đây đã là tiền đề cho sự thành lập của Đệ tam Cộng hòa Hungary vào ngày 23-10-1989 và việc đảng cầm quyền nhường chỗ cho các chính đảng đối lập trong cuộc bầu cử tự do đầu tiên vào năm 1990. Nước Hung đã trải qua thời hậu cộng sản một cách khá êm ấm và khá mẫu mực. - Đạo luật bồi hoàn tài sản tinh thần và vật chất cho những nạn nhân chế độ cũ đã được đưa ra và ông Sólyom László, kiến trúc sư của đạo luật này, người từng giữ chức chánh án Tòa án Hiến pháp Hungary thời kỳ 1990-2000, hiện là tổng thống Hungary, đã coi đây là dấu ấn của Hungary thế kỷ XX trong mắt ông. - Đạo luật Thanh lọc cho phép kiểm tra quá khứ của những người từng tham gia chế độ cũ trong các cơ quan mật vụ chính trị, công khai hóa ở mức độ chấp nhận được những nhân vật ấy, mà không gây xáo trộn quá đáng trong xã hội. Các đảng viên cộng sản cũ không bị kỳ thị, truy đuổi hay phân biệt đối xử một cách đáng kể. Từ khi đạo luật này được thông qua và sửa đổi nhiều lần cho phù hợp với hoàn cảnh hiện tại, khá nhiều nhân vật nổi tiếng (chính khách, các nhân sĩ, văn nghệ sĩ, nhà thể thao...) bị phát hiện là từng công tác với cơ quan an ninh mật thời trước. Tuy nhiên, trong từng trường hợp, dư luận xã hội đều tỏ ra công bằng và thấu hiểu, nên những rạn nứt ở mức độ lớn đã không xảy ra. - Quá trình tư hữu hóa các công sở quốc doanh diễn ra nhanh chóng và triệt để. Tuy nhiên, đây là khâu được coi "có vấn đề" nhất của quá trình chuyển biến: cùng với chủ nghĩa kinh tế thị trường nhiều khi rừng rú ở Hung trong hai thập niên qua, đã khiến một bộ phận có quyền thế trong chính quyền có dịp làm giàu rất nhanh, trong khi nền kinh tế trong nước suy sụp vì những khoản nợ nước ngoài. Và đây cũng là điều khiến người dân Hung, trong dịp 20 năm nhìn lại quá khứ, cảm thấy tiếc. Tuy nhiên, người dân Hung nói chung không có xu hướng hoài vọng quá khứ, không tiếc rẻ quá khứ "vàng son" như ở nhiều nước XHCN cũ khác. Các thăm dò dư luận cho thấy người dân không muốn trở lại chế độ cũ, không cảm thấy tiếc vì biến cố 20 năm trước, và đều đồng nhất với ý kiến cho rằng biến chuyển dân chủ là đúng đắn, cần thiết và chính là sự tiếp nối những nguyện vọng của dân tộc Hungary từ năm 1956.
|