Obama giết Osama: 10 năm săn thủ phạm 11- 9 (phần 1) |
Tác Giả: Đinh Từ Thức | ||||
Thứ Ba, 13 Tháng 9 Năm 2011 04:22 | ||||
Lời Giới Thiệu của Tác Giả: Vụ tấn công giết gần ba ngàn người ngay trên đất Mỹ ngày 11 tháng 9, 2001 được coi quan trọng ngang tầm vụ tấn công vào Pearl Harbor cuối năm 1941. Mỹ chỉ mất gần bốn năm để tóm cổ Thủ tướng Nhật Tojo Hideki, và ba năm xét xử trước khi treo cổ ông ta. Nhưng đã mất tới mười năm để hạ sát Osama bin-Laden. Một tuần sau vụ 11 tháng 9, tới thăm Ngũ giác đài ngày 17 tháng 9, Tổng Thống George Bush tuyên bố: “Tất cả những gì tôi có thể nói là Osama bin-Laden là nghi phạm chính”. Ông nói, “Tôi muốn công lý. Như cáo thị ở miền Tây từng niêm yết: Cần bắt, sống hay chết”. Cuộc săn lùng thật ra đã bắt đầu trước 11 tháng 9, 2001, khi bin-Laden chính thức tuyên bố mở đầu cuộc thánh chiến chống lại Hoa Kỳ từ năm 1996. Nhưng cuộc săn bắt chỉ thực sự khẩn trương từ sau vụ 11 tháng 9. Bài này đã được viết lại, và dịch lại, dựa theo nhiều tài liệu đã công bố trên Washington Post, New York Times, Reuters, nhất là các bài “The Hunt” trên Wasington Post ngày 6 tháng 5, 2011, của Peter Finn, Ian Shapira, và Marc Fisher, bài “Top Secret America: STEALTH MISSIONS” của Dana Priest và William M. Arkin, cũng trên Washington Post ngày 4 tháng 9, 2011, và đặc biệt là bài “Getting Bin Laden” trên tạp chí New Yorker ngày 8 tháng 8, 2011, của Nicholas Schmidle. Các tác giả bài The Hunt đã viết dựa trên các cuộc phỏng vấn trên 20 giới chức cao cấp về chính trị, quân sự và tình báo từ các chính quyền Clinton, Bush và Obama. Riêng bài báo của Schmidle đã được coi như một “coup” ngoạn mục trong làng báo, với nội dung rất phong phú, gồm những chi tiết chưa hề được tiết lộ trước đó. Ngoài lời tuyên bố sẽ bắt bin Laden đền tội trước công lý dù sống hay chết, ông Bush còn đe dọa những ai giúp đỡ hay chứa chấp thủ phạm cũng sẽ bị trừng phạt. Chế độ Taliban của Afghanistan đã chứa chấp bin Laden, không chịu nộp trùm khủng bố này theo lời yêu cầu của Washington, nên Hoa Kỳ và đồng minh đã đổ bộ Afghanistan từ ngày 7 tháng 10, 2001. Cùng ngày 17 tháng 9, 2001, ngoài lời tuyên bố Osama bin Laden là thủ phạm chính, Tổng thống George Bush còn chỉ thị cho CIA được quyền bắt hay giết các nghi phạm khủng bố. Cuộc đột kích hạ sát bin Laden đêm 1 tháng 5, 2011, trên căn bản pháp lý, dựa vào chỉ thị còn hiệu lực này. Dư luận đã từng được nghe nhiều về những hành tung bí mật của CIA, và khả năng phi thường của “Người Nhái” (SEAL = Sea, Air and Land), nhưng trong mười năm qua, một cơ quan cực kỳ bí mật của Mỹ chuyên về chống khủng bố, bao trùm cả CIA và SEAL, bà Bộ Chỉ huy hỗn hợp các chiến dịch đặc biệt (JSOC = Joint Special Operations Command). Chính cơ quan này đã phụ trách việc săn bin Laden. JSOC được mô tả như môt thế lực đen, ra lệnh hành động, nhưng không thể nhìn thấy. Được thành lập vào năm 1980, khởi đầu chỉ gồm một toán nhỏ, và chuyến ra quân đầu tiên để cứu các con tin Hoa Kỳ tại Đại Sứ Quán Mỹ ở Tehran đã gặp thất bại nặng nề, vì hai trực thăng đụng nhau, chẳng cứu được ai, còn thiệt mạng tám người trong nhóm đi cứu. Nhưng trong mười năm qua, nhân số của tổ chức này đã tăng gấp mười lần, với địa bàn hoạt động và quyền hành rộng rãi, cũng như cực kỳ bí mật. Khi các thành viên của nhóm ưu tú này hạ sát bin Laden ở Pakistan vào tháng Năm vừa qua, cấp chỉ huy JSOC đã ăn mừng, không phải chỉ do sứ mạng thành công, mà còn vì rất ít người biết có tổ chức này, đặt bản doanh tại Fayetteville, NC. Tiền mặt là vũ khí Mỹ bắt đầu cuộc chiến Afghanistan chỉ bốn tuần sau 11 tháng 9, với rất nhiều khó khăn, vì quá xa lạ, và thiếu người thông hiểu ngôn ngữ cũng như lịch sử và phong tục tập quán Afghanistan. Nhất là tại một nơi vẫn còn trong tình trạng bộ lạc. Công tác đầu tiên là phải tìm ra những ai là tù trưởng có thế lực, gặp họ, và khi gặp, phải mang theo quà. Thông điệp đưa ra: “Chúng tôi là bạn của quý vị, là bạn của mọi người. Những ai tốt với chúng tôi, thì được nhận đô la Mỹ”. Berntsen của CIA chỉ huy một nhóm với nhiệm vụ săn bin Laden, làm việc tại một nhà khách ở Kabul, chứa hàng triệu đô la tiền mặt, để trong những hộc bằng plastic, sẵn sàng chi bạc ngàn cho những ai đưa tin về nơi trú ẩn của bin Laden. Berntsen nói, có khi nhận được tám báo cáo cùng một lúc, cho biết bin Laden đang ở làng này, hay làng kia. Thật ra, chẳng ai biết rõ bin Laden đang ở đâu. Sau này, theo tin mật do WikiLeaks tiết lộ, căn cứ vào lời khai của những nghi can khủng bố bị bắt, ngay sau ngày 11 tháng 9, bin Laden và nhân vật thứ nhì của Al Qaeda là Ayman al-Zawahiri vẫn đi lại bằng xe khắp Afghanistan, hành động như một nguyên thủ quốc gia lưu vong, tiếp các bộ hạ tại Afghanistan, cũng như từ ngoại quốc. Đầu tháng 10, 2001, vào lúc Mỹ bắt đầu tấn công Afghanistan, bin Laden được một vị trưởng lão Afghanistan là Yunis Khalis mời về nương náu tại Jalalabad, gần vùng hầm hố hiểm trở Tora Bora. Khalis 82 tuổi, là một trong những nhà lãnh đạo quan trọng của Afghanistan, ông đã từng nhận được hàng chục triệu đô la võ khí do CIA cung cấp để chống Nga. Chính Khalis đã giới thiệu bin Laden với thủ lãnh Taliban là Mohammad Omar. Nhưng khi Mỹ bắt đầu tấn công Afghanistan, Khalis kêu gọi chống Mỹ. Tới ngụ tại Jalalabad vào tháng 11, 2001, bin Laden cũng vung tiền ra cho các bộ tộc địa phương. Vô hình chung, CIA và bin Laden đã đánh nhau bằng tiền. Nhưng ngoài tiền, Mỹ còn có bom. Khi những cuộc ném bom gia tăng, bin Laden tới ẩn náu tại vùng núi hiểm trở Tora Bora. Tại đây, người của Berntsen đã kiếm ra dấu vết của bin Laden. Vào tháng 12, 2001, Mỹ sử dụng cả pháo đài bay B-52, và chiến đấu cơ F-15, mở cuộc tấn công liên tục kéo dài gần 60 giờ; ngoài ra, một trái bom khổng lồ (BLU-82), được thả xuống từ một phi cơ vận tải C-130, tàn phá một vùng rộng bằng năm sân túc cầu, giết nhiều chiến binh Qaeda, và Berntsen nghĩ rằng trong số có cả bin Laden. Nhưng sáu ngày sau, người của Berntsen nghe được tiếng bin Laden ra lệnh cho thuộc hạ của mình, qua máy radio trên người một tử sĩ Al Qaeda. Bin Laden đã chạy thoát vào sâu trong núi. Việc hệ trọng không nên nhờ người ngoài Trở về Kabul, Gary Berntsen đề nghị: muốn bắt bin Laden, oanh tạc bằng máy bay chưa đủ, mà cần phải có 800 biệt động quân mở cuộc lùng bắt, mới có thể thành công. Yêu cầu tấn công bằng bộ binh không được đáp ứng, vì khi đó, đã có dự tính dùng quân cho mặt trận Iraq. Vẫn cố bám sát bin Laden, CIA đã tuyển được một người Afghanistan vào sâu trong núi, đem cho bin Laden và thuộc hạ thực phẩm và nước uống. Người này đã nhìn thấy bố con bin Laden, và trong cơn túng quẫn, bin Laden cũng không chê đồ ăn, nước uống. Không đủ quân để tảo thanh vùng hiểm trở Tora Bora, một toán đặc nhiệm tinh nhuệ chọn lọc gồm 30 người thuộc lực lượng Delta, được trao nhiệm vụ đột kích nơi nghi là sào huyệt của bin Laden từ Pakistan, là phía sau ít được phòng thủ. Toán đặc nhệm phải mang theo bình dưỡng khí, vì phải vượt qua mỏm núi cao tới 14 ngàn bộ. Theo dự trù, cuộc đột kích này có sự phối hợp với quân của cả Pakistan và Afghanistan. Theo lệnh trên, toán đặc nhiệm Delta ngừng tại phía biên giới thuộc Afghanistan để cho quân Afghanistan tiêu diệt bin Laden, trong khi quân Pakistan trấn giữ kín biên giới của mình. Nhưng theo vị thiếu tá chỉ huy toán đặc nhiệm (nay đã về hưu, viết sách với bút hiệu Dalton Fury), quân Afghanistan thiếu tinh nhuệ và sự hăng say chiến đấu, trong khi phía quân Pakistan đã lỗi hẹn, không có mặt. Ngày 10 tháng 12, 2001, được tin báo chỗ ở của bin Laden ở vùng Tora Bora, toán đặc nhiệm mở cuộc tấn công chớp nhoáng, nhưng khi thấy bị các đồng minh Afghanistan bỏ rơi đàng sau lằn ranh của địch quân, toán này phải ngừng tiến quân, bỏ ra hai giờ để cứu đồng đội. Cuộc tấn công bị hủy bỏ. Mùa Hè năm sau, người của Fury trở lại Tora Bora với một toán giảo nghiệm, đào 80 ngôi mộ chiến binh al-Qaeda, nhưng không tìm thấy ai mang dấu tích của bin Laden. Toán săn bin Laden tiếp tục công tác. Tháng 12 ngăm 2002, họ mở một cuộc tấn công ban đêm vào Tora Bora, bắt được một người chăm sóc sức khỏe cho bin Laden. Người này nói bin Laden đã đi khỏi nơi này từ lâu. Kể từ đó, coi như bặt tin, trừ khi thỉnh thoảng bin Laden lại xuất hiện qua các đoạn băng video để tuyên truyền. Theo các giới chức hàng đầu về tình báo, qua kinh nghiệm săn hụt bin Laden, Hoa Kỳ đã học được một bài học, là không nên nhờ người ngoài làm hộ chuyện quan trọng như giết bin Laden. Mấy tháng sau Tora Bora, trong khuôn khổ chuẩn bị chiến tranh Iraq, chính quyền Bush rút bớt lực lượng đặc nhiệm và CIA từng được dùng để săn bin Laden ở Afghanistan. Ngay cả những máy bay không người lái (drones) vốn dùng để theo dõi những người qua lại ở vùng núi non hiểm trở tại Afghanistan cũng được dùng để chuẩn bị mặt trận Iraq. Trung tướng John Vines từng nói với Washington Post vào năm 2006 rằng: có lần, quân của ông chỉ còn cách nửa giờ là đuổi kịp bin Laden, ông xin máy bay không người lái theo dõi ba đường tẩu thoát. Nhưng chỉ có một máy bay sẵn sàng, những chiếc khác đã được gửi tới Iraq. Mục tiêu chạy thoát. Bỏ đầu, tìm đuôi Cuộc săn bin Laden không đem lại kết quả đã gây tranh cãi tại Washington, và đơn vị chuyên săn các mục tiêu quan trọng (HVT = High-Value Targets – bin Laden được coi là HVT-1) đã phải nghĩ tới cách săn theo đường lối mới: tìm đuôi để lần ra đầu. Bin Laden có thể trốn trong núi, có thể không, nhưng câu hỏi quan trọng không phải là “Bin Laden đang ở đâu?” mà là, “Bin Laden làm thế nào để thông tin?” Kết quả thẩm vấn các nghi can khủng bố bị bắt cho biết bin Laden chỉ ra lệnh cho thuộc hạ mỗi tháng một lần, qua liên lạc viên. Điều này khiến các nhà phân tích và giới chức tình báo nhận thấy “cần phải biết rõ mạng lưới tổ chức và các liên lạc viên, để có thể tìm ra nơi trú ẩn của mục tiêu”. Tại Bạch Ốc, do áp lực của dư luận về việc săn bin Laden quá chậm, ông Bush đã phải mở “chiến dịch Cannonball”, ra lệnh cho CIA “tràn ngập khu vực”, gia tăng nỗ lực săn đuổi tại Pakistan và Afghanistan, nhưng không đem lại kết quả nào. Nhưng việc tìm hiểu mạng lưới tổ chức của al-Qaeda vẫn tiếp tục. Ngoài CIA, quân đội cũng tham dự cuộc săn bắt. Năm 2006, vơi tư cách chỉ huy của JSOC, Tướng McChrystal đã mở những cuộc hành quân săn bắt các lãnh tụ của al-Qaeda tại cả Iraq, Afghanistan và Yemen. Theo Tướng McChrystal “để đánh bại một mạng lưới quân địch, chúng ta cũng phải trở thành một mạng lưới”. Những tin tức tình báo được phổ biến cho mọi người tại chiến trường, thay vì chỉ gửi cho hệ thống chỉ huy. Video từ các máy bay không người lái không chỉ được gửi cho các nhà phân tích điều khiển các chuyến bay trinh sát, mà gửi cả cho các nhóm chiến đấu tại trận địa. Kết quả tăng lên rõ ràng. Tại CIA, các nhà phân tích không chỉ tìm kiếm dấu vết nơi các hầm hố, mà còn cả trong sách vở và lời khai từ các cuộc thẩm vấn nghi phạm. Ví dụ, trong cuốn sách nổi tiếng “Growing up Bin Laden” do vợ bin Laden là Najwa và con trai là Omar viết rằng, bin-Laden đã từng có những căn nhà an toàn ở Kabul, vì ông ta nghĩ rằng Mỹ sẽ không bao giờ dội bom ở thành phố, vì sợ giết dân vô tội. Điều này khiến các nhà phân tích nghĩ rằng bin Laden có thể trốn ở thành phố. Anh hùng thấm mệt Cuộc săn bắt tiến triển quá chậm, trong khi áp lực của dư luận quá lớn, khiến giới hữu trách cảm thấy mệt mỏi. Một cựu viên chức từng làm việc tại Bạch Ốc thời ông Bush cho biết: “Chúng tôi đã không thể tìm thấy bin Laden sớm hơn. Bên ngoài, chúng tôi vẫn giữ vẻ khẩn trương, làm như cố gắng hết sức. Nhưng năng lực đã hao mòn. Cuộc săn bắt đã bị coi như vấn nạn hạng nhì. Hơn nữa, đó là thời gian cuộc chiến Iraq trong tình trạng tồi tệ nhất”. Cùng với cuộc chiến Iraq, tình trạng căng thẳng với võ khí hạt nhân của Bắc Triều Tiên, đã đoạt sự chú ý hàng đầu của dư luận. Các giới chức cao cấp của chính quyền Bush không muốn đề cập tới cuộc săn bin Laden nữa. Trong mấy năm kế tiếp, cuộc săn bắt chỉ còn nhờ vào kết quả quan sát của máy bay trinh sát không người lái. Nhưng hy vọng vẫn chỉ là hy vọng. Vào khoảng năm năm sau cuộc săn bắt, vì thiếu những tin tức khả tín về bin Laden, Bạch Ốc của ông Bush, qua các tuyên bố chính thức, đã có chiều hướng giảm thiểu vai trò quan trọng của cá nhân bin Laden, và hướng dư luận về những đe dọa khác. Đầu năm 2009, Tổng Thống Bush con chấm dứt nhiệm kỳ, ra đi tay trắng, không bắt được bin Laden, sống hay chết. Cuộc săn Osama sang tay Obama. Một tháng trước cuộc bầu cử tháng 11 năm 2008, trong cuộc tranh luận chót với đối thủ John McCain tại Đại Học Belmont ở Nashville, một phụ nữ trong số khán thính giả hỏi ông Obama rằng, ông có theo đuổi cuộc săn bắt lãnh tụ Al Qaeda không, nếu bin Laden trong lãnh thổ Pakistan, và làm như vậy, liệu có xâm phạm lãnh thổ của đồng minh không? Ông Obama trả lời: “Nếu chúng ta thấy Osama bin Laden và chính quyền Pakistan không thể, hay không muốn bắt, thì tôi nghĩ rằng chúng ta phải hành động để bắt. Chúng ta sẽ giết bin Laden. Chúng ta sẽ đập tan Al Qaeda. Đó là ưu tiên lớn nhất cho an ninh quốc gia của chúng ta”. McCain cho đó là lời hứa hão. Bốn tháng sau khi Obama làm chủ Bạch Ốc , Giám Đốc CIA Leon Panetta tường trình Obama về các chương trình và sáng kiến mới nhất trong cuộc săn bin Laden. Obama không mấy phấn khởi. Vào tháng Sáu, ông đã chỉ thị cho Panetta thảo ra một kế hoạch chi tiết, sử dụng mọi nỗ lực cần thiết để săn bin Laden. Obama cũng ra lệnh cho CIA tăng cường các vụ tấn công bí mật của máy bay không người lái. Trong năm đầu nhiệm kỳ Obama, các cuộc tấn công bằng hỏa tiễn trong nội địa Pakistan nhiều hơn tổng số tám năm nhiệm kỳ của ông Bush. Theo tin CBS tháng 7, 2009, chính Al Qaeda cũng thừa nhận “nhiều tư lệnh can trường đã bị bắt, và nhiều cơ sở bí mật đã bị bình địa”. Nhưng bin Laden vẫn biệt tăm.
|